Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
368609

Lịch sử hình thành xã Dân Lực

Ngày 10/04/2018 07:21:02

A. KHÁI QUÁT

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI

Xã Dân Lực thuộc huyện Nông Cống ngày xưa, được thành lập từ tháng 4 năm 1953 từ xã Tứ Dân cũ của huyện Nông Cống.

Dân Lực là một xã đồng bằng bán sơn địa, thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, diện tích tự nhiên 830.19 ha, với số dân 8.118 người, mật độ dân số là 978 người/km2 cách trung tâm huyện Triệu Sơn 3 km về phía Bắc và cách thành phố Thanh Hóa 20 km về phía Tây.

Phía Bắc giáp xã Thọ Phú và xã Thiệu Hòa của huyện Thiệu Hóa.

Phía Đông giáp xã Dân Quyền.

Phía Nam giáp xã Minh Dân – Thị Trấn và xã Minh Sơn.

Phía Tây giáp xã Thọ Thế, Thọ Tân

Vị trí địa lý của xã tương đối thuận lợi, Dân Lực có 2 tuyến đường quốc lộ: 47 và 47 C chạy qua. Việc giao lưu thông thương với các xã lân cận ; với trung tâm huyện và các huyện xung quanh khu vực rất thuận lợi. mạng lưới các tuyến đường xã, liên thôn được phân bố khá hợp lý cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa cũng như đi lại của người dân.

Khí hậu: Xã Dân Lực nằm trong khí hậu đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa, có ảnh hưởng một phần  của khí hậu vùng trung du tỉnh Thanh Hóa nên  nhiệt độ cao đều quang năm từ 25,00C – 39,800C, lượng mưa biến động theo mùa khô khá rõ ràng. Lượng mưa trung bình từ 1600- 1900mm. Còn chịu tác động sâu sắc của hai mùa gió trên một nền nhiệt và ẩm phong phú với độ ẩm cao nhất là 89%.

Sông ngòi: Nguồn cung cấp nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân xã Dân Lực chủ yếu được cung cấp từ Hệ thống kênh Nam từ đập Bái thượng đổ về. Nguồn nước được cung cấp cho các kênh mương nội đồng thông qua kênh tưới. Hệ thống kênh tiêu gồm 3 xã và sông suối tự nhiên. Hiện tại xã đã kiên cố hóa Tuyến kênh Nam và kênh N2 được 7,85/7,85 km nên rất thuận lợi cho việc tưới tiêu cho cây trồng.

Thủy lợi: Có kênh nam chạy dọc từ Bắc đến Nam và kênh N2 lấy nước từ kênh Nam để tưới tiêu cho đồng ruộng. Đây là một phần trong hệ thống thủy lợi sông Chu, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp ở địa phương.

Hệ thống giao thông:

Xã Dân Lực là nơi gặp gỡ và đi qua của 2 tuyến đường chính là Quốc lộ 47 và Quốc lộ 47 C và nhiều trục đường xã, trục đường thôn. Đường Quốc lộ 47 qua địa bàn xã dài 3.850m mặt rộng 12m và đường Quốc lộ 47C qua địa bàn xã dài 3.500m với mặt đường rộng 7m. Đường trục xã có 5 tuyến với tổng chiều dài 5.176m, hiện trạng bề rộng nền chủ yếu từ 4 đến 5m, mặt rộng từ 3 đến 4 m đã cứng hóa 4,38km.  Hệ thống giao thông thuận tiện đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã.

Những năm gần đây, nhờ kinh tế phát triển, Đảng bộ, chính quyền đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, huy động sự đóng góp của nhân dân, đường làng ngõ xóm từng bước được mở rộng, đổ bê tông, thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân, góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn.

II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ

Lịch sử hình thành và phát triển của xã Dân Lực luôn gắn liền với lịch sử huyện Nông Cống, Triệu Sơn. Qua nhiều lần thay đổi địa giới và tên gọi, đến năm Quý Hợi (1323) đời vua Trần Minh Tông hai chữ Nông Cống chính thức được nhắc đến với tư cách là một huyện của châu Cửu Chân. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”, được biên soạn vào thời Nguyễn([1]), thời gian này huyện Nông Cống có 9 tổng. Đến trước Cách mạng Tháng Tám, Nông Cống có 10 tổng gồm: Văn Xá, Cao Xá, Vạn Đồn, La Miệt, Lạc Thiện, Đô Xá, Đồng Xá, Cổ Định, Hữu Định, Lai Triều.

Xã Dân Lực thuộc tổng Đô Xá huyện Nông Cống. Sau 1954 lại tiếp tục được chia  và có 44 xã thuộc huyện Nông Cống trong đó có xã Dân Lực. Đến ngày 16-12-1964, tách 20 xã: Hợp Tiến, Hợp Thắng, Hợp Lý, Hợp Thành, Minh Châu, Minh Dân, Minh Sơn, Dân Lý, Dân Lực, Dân Quyền, An Nông, Vân Sơn, Nông Trường, Tiến Nông, Khuyến Nông, Thái Hòa, Tân Ninh, Đồng Tiến, Đồng Thắng, Đồng Lợi để thành lập huyện Triệu Sơn.

Xã Dân lực chính thức được thuộc huyện Triệu Sơn từ năm 1964. Năm 1991, thực hiện Nghị quyết 878 của UBND tỉnh Thanh Hóa thành lập thôn, xóm thay cho đội sản xuất trước đây, các đội sản xuất của HTX nông nghiệp toàn xã được lấy là đơn vị xóm, cùng với việc bầu chức danh thôn trưởng. Trước năm 1986 đến năm 1993 Dân Lực có 19 xóm. Từ năm 1993 đến năm 2005 xã Dân lực có 8 thôn và 1 xóm gồm: Ân Mọc, Tiên Mộc, Xuân Tiên, Thị Tứ, Thiện Chính, Đô Trang, Đô Xá, Phúc hải và Xóm 19. Từ năm 2005 đến nay Dân Lực tháp thôn và được chia làm 8 thôn là Ân Mọc, Tiên Mộc, Xuân Tiên, Thiện Chính,Thị Tứ, Đô Trang, Đô Xá, Phúc Hải.

Có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư nơi đây đã trải qua nhiều thế kỉ. Sự ra đời của đơn vị hành chính xã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

III. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA

1.  Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo

Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo là mạch nguồn xuyên suốt bao thế kỉ nay từ khi có con người đến mảnh đất Dân Lực khai hoang lập nghiệp. Có thể tổ tiên của họ từ phía Tây tràn xuống trong cuộc trường chinh đi mở đất vùng miền đồng bằng, hoặc từ ngoài Bắc vào, từ Nghệ An ra, hay từ Thiệu Hóa, Đông Sơn, hay từ Thọ Xuân lên lập nghiệp. Có người vì chống cường quyền, áp bức, hay bất đắc chí với xã hội đương thời tìm về miền đất bên dòng sông Hoàng này thấy chốn bình yên. Có người phận hèn, thân yếu, không có nổi miếng đất cắm dùi, phiêu bạt về đây sinh sống. Có người không cam chịu cảnh nghèo, thích phiêu du, có tầm nhìn xa, trông rộng, quyết ở lại để lập nghiệp, bởi thấy được tiềm năng còn ẩn chứa trên vùng đất bên dòng sông Hoàng này. Cũng có người đến chơi, hay đi làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, được dân nuôi dưỡng, mến cảnh, mến người, mà nên dâu, nên rể rồi thành quê của mình.

Vào thời Lê Thái Tông và Lê Thánh Tông chủ trương sửa sang lại hệ thống sông Nhà Lê đã cho khơi thông dòng chảy dòng sông Hoàng, đã khơi thông dòng chảy qua thành Lê Chích cũ rút nước cả hai khu đầm, hồ nói trên và đắp lại hệ thống đê điều. Nước rút đi, những cánh đồng cỏ bạt ngàn, với cây cối rậm rạp thay thế. Trên mảnh đất ấy, những cư dân đầu tiên đến đây chặt tre, đi rừng lấy nứa, gỗ để dựng nhà, phát cỏ cây, bụi rậm, bổ nhát cuốc đầu tiên, chính thức bước vào công cuộc biến đất hoang thành đồng ruộng màu mỡ, biến cánh đồng hoang vu thành xóm thôn trù phú. Đó là quá trình lao động đầy gian khổ, nhọc nhằn, đòi hỏi phải kiên nhẫn, thời gian không thể tính bằng năm tháng mà bằng thế hệ người của mỗi dòng họ.

Làm nghề nông ở xã Dân Lực trong điều kiện hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên luôn chịu cảnh hạn hán vào mùa khô, ngược lại vào mùa mưa nước từ sông Hoàng đổ về cướp đi hoa màu thì cực nhọc vô cùng. Bao mồ hôi, công sức của người dân kết tinh trên những hạt thóc, củ khoai bỗng chốc trôi theo sông nước.

Ngoài nghề trồng lúa nước, người dân ở  xã Dân Lực nhất là thôn Thị Tứ còn có nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ …

2. Truyền thống văn hóa

Từ xa xưa, nhân dân xã Dân Lực đã tạo dựng cho mình một truyền thống văn hóa đặc sắc. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong quá trình mở đất, dựng làng, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã đủ loại để tồn tại và phát triển.

Dễ thấy, trước đây các làng truyền thống ở Dân Lực đều có hệ thống đình chùa, đền miếu tương đối đặc sắc, phản ánh đời sống tinh thần của dân làng trong nền văn minh lúa nước. Tìm hiểu việc thờ thành hoàng ở các làng đều thấy nhân dân tôn thờ những nhân thần như Cao Sơn, Quận Vạn,  Quận lân, Quận Trinh, Nguyễn Hữu, Nguyễn Công, Nghè Bùi, Trịnh Đinh Thịnh….. là những người có công với đất nước, hay khai canh mở đất, lập làng.

Đặc biệt trong những năm 1949 - 1950 trong xã có Đình Phe thuộc thôn Xuân Tiên xã Dân Lực là nơi đặt Trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn  học tập và huấn luyện. Cạnh đình có 1 điếm canh và có 01 chuông uớc chừng cao 2 tầng 8 mái, có những chuông nặng tới vài trăm cân treo ở trên tầng mái cao nhất.

Năm 1958 khi đang cày đất trồng lúa người dân còn đào được 01 trống đồng Ngọc lũ ở khu đồng áng ma bây giờ. Trống đồng này đã được Sở văn hóa thông tin thu về trưng bày lưu giữ.

Về công trình kiến trúc chỉ còn lại 3 ngôi đình. Hàng năm các dòng họ tập trung đến để thờ thần Hoàng làng, theo các cụ kể lại:

Đình nhất thờ vị Cao Sơn chấn Đông Đại Dương.

Đình nhì thờ vị Linh Quan chấn Tây Đại Dương.

Đình ba thờ vị Thiên Trinh chúa bà Tốn Trầu.

3. Truyền thống yêu quê hương, đất nước

Thẳm sâu trong tâm hồn, cốt cách người Dân Lực là tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân các làng trong xã lại tôn thờ những người có công khai đất, lập làng làm thành hoàng. Qua việc tôn thờ họ là thần, thánh để tỏ lòng biết ơn những người có công với quê hương, đất nước, đồng thời cũng là để giáo dục, nhắc nhở thế hệ đang sống và muôn đời sau phát huy truyền thống yêu nước của quê hương.

 Trải qua nhiều thế kỉ nay, nhân dân xã Dân Lực đã cần cù lao động, biến vùng đất ấy thành những cánh đồng thẳng cánh cò bay cho bao mùa vàng no ấm. Qua quá trình ấy, nhân dân nơi đây đã tạo dựng nên nhiều giá trị vật chất và tinh thần phong phú, đó là nền tảng, là sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Dân Lực vượt mọi khó khăn, hoàn thành sự nghiệp cách mạng trên quê hương yêu dấu.

IV. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG GÓP PHẦN GIÀNH CHÍNH QUYỀN THẮNG LỢI (1930 - 1945)

1. Tình hình kinh tế, xã hội trong thời kì thống trị của đế quốc và phong kiến

    Về chính trị: Ở các làng, thực dân Pháp chủ trương duy trì bộ máy phong kiến cũ, để làm công cụ thống trị và bóc lột ở cấp làng xã, toàn quyền Đume từng nói: “duy trì trọn vẹn thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mỗi làng xã là một nước cộng hòa nhỏ độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên…Làng xã là một nước cộng hòa nhỏ phải cống nạp. Chúng ta xác định mức cống nạp tùy theo sự giàu có tổng thể của xã; còn chính làng xã phải tìm cách thu cống phẩm. Phương pháp này tạo cho làng xã một sức mạnh lớn, tránh được sự tiếp xúc trực tiếp giữa chính quyền của người Pháp với dân chúng”.

Đến 1939, sau cao trào dân chủ, chúng đặt thêm phó bang tá, trưởng đoàn tổng, tuần kiểm thôn để phối hợp chống phá cách mạng. Ngoài ra tập tục lệ làng còn có thêm hệ thống làng lão - những người có quyền định đoạt mọi công việc trong làng theo lệ làng, nhất là trong hội hè, lễ nghi, tế tự ...

Về kinh tế: Sau khi bình định xong nước ta, thực dân Pháp từng bước thực hiện quyền cai trị của chúng, ngày 23 tháng 6 năm 1894, Bộ trưởng Bộ thuộc địa pháp Delcase gửi thư cho toàn quyền Đông Dương thúc giục: “Khai thác những vùng lãnh thổ mà chúng ta chiếm được, thiết lập ở đó đồn điền, phát triển sản xuất ở thuộc địa bằng chính con đường phát triển thương mại với chính quốc”([2]), vua Khải định cũng đã đạo dụ về quyền mua tậu ruộng đất của người Pháp. Trải qua nhiều thập kỉ dưới chế độ áp bức của thực dân phong kiến, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Thực dân Pháp khuyến khích bọn địa chủ, nhà giàu tham lam mặc sức dùng mọi thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân. Vùng đất Nông Cống - Triệu Sơn phì nhiêu là thế mà bị bọn tư bản người Pháp và người Việt thi nhau chiếm đoạt, với hàng chục đồn điền, trang ấp. Khu vực xã Đồng Lợi ngày nay có ấp Hàn Thanh rộng 500 mẫu, các xã khu Dân Lý có ấp Nguyễn Hữu Ngọc với diện tích lên đến 1.000 mẫu...

Nhìn chung, dưới chế độ thực dân phong kiến, các địa chủ, tư sản người Việt và ngưới Pháp tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng đất của dân thông qua việc cầm cố, mua bán, cho vay nặng lãi. Vì vậy trước Cách mạng Tháng Tám, phần lớn ruộng đất nằm trong tay địa chủ, phú nông, số còn lại một phần là ruộng công như: ruộng tư văn, tư võ hàng tổng, ruộng phe giáp, đền, chùa, ruộng của dân nghèo chỉ chiếm diện tích nhỏ hầu hết là ruộng xa, xấu. Tuy nhiên, ở Dân Lực do ruộng đất ít nên số địa chủ lớn không nhiều. Số địa chủ cường hào ác bá hầu như không có.

Về văn hóa: Chính sách ngu dân của thực dân đế quốc đã để lại hậu quả hết sức nặng nề cho nhân dân địa phương. Đến đầu thế kỉ 20 cả tổng Đô chỉ có một trường học dạy chữ Hán với ít học sinh và một vài lớp học tư của các cụ đồ trong làng dạy Hán tự cho một số ít học trò. Học trò chủ yếu là học cho biết ít chữ để làm văn tự đơn từ, cúng bái... Đến năm 1927 Pháp cho mở một trường tiểu học gồm 3 lớp, dạy tiếng Pháp và tiếng quốc ngữ, nhưng chỉ có một số ít con nhà giàu theo học mong thi đỗ đạt để ra làm quan, hoặc làm chức sắc trong làng để kiếm lợi. Do đó trước Cách mạng tháng Tám, trên 90% dân số hoàn toàn mù chữ, kém hiểu biết về xã hội.

Hoạt động y tế, vệ sinh phòng bệnh càng tồi tệ hơn, trong làng xã không có hoạt động y tế của Nhà nước. Khi đau ốm, thai sản hầu hết là nhân dân chạy chữa bằng thuốc nam do thầy lang vườn, với dụng cụ thô sơ, lạc hậu, hoặc cúng bái, mê tín dị đoan. Đường làng  không được đắp hoặc tu sửa, cải tạo nên bẩn thỉu, ngõ xóm quanh co, nhỏ hẹp, ăn uống dùng nước giếng đất, giặt giũ, sinh hoạt bằng nước ao, sông hồ, bệnh dịch xảy ra liên tục, tỉ lệ trẻ em chết, mắc bệnh dịch tả, sởi, cúm rất cao. Tình trạng mê tín dị đoan, đồi phong, bại tục trong nhân dân rất nặng nề. Lại được bọn thống trị khuyến khích, chúng luôn lôi kéo nhân dân vào các cuộc tế lễ, rước sách ở các đền chùa, hội hè, hút sách, rượu chè, làm cho nhân dân luôn đắm chìm trong ngu muội, đói nghèo. Bọn chúng tuyên truyền nguyên nhân nghèo khổ do số phận, triệt tiêu đấu tranh giai cấp và cách mạng.

2. Phong trào cách mạng của nhân dân địa phương trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Là vùng quê có truyền thống yêu nước, những người con ưu tú của Nông Cống - Triệu Sơn đã nhanh chóng nhận ra chân lí thời đại, con đường cách mạng để cứu nước, cứu nhà. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hữu Lập, đồng chí Võ Danh Thùy (Tế Thắng, Nông Cống) đã về quê, làng Thổ Vị, tổng Cao Xá thành lập tiểu tổ “Hội đọc sách báo cách mạng” đầu tiên của Nông Cống. Tiếp thu ánh sáng cách mạng, nhiều phong trào đấu tranh của giới trí thức, học sinh, sinh viên đã nổ ra, điển hình là phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu.

B. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN  QUA CÁC GIAI ĐOẠN

I. GIAI ĐOẠN (1986 - 1990)

Bước vào những năm tám mươi của thế kỉ trước, nước ta đứng trước những thử thách nghiêm trọng, những hạn chế của cơ chế quản lí tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, sản xuất đình trệ. Những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân không đủ đáp ứng, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nước ta thật sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Đứng trước những thử thách khó khăn, nhân dân xã Dân lực đã phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vượt qua khó khăn để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, quê hương ngày thêm đổi mới. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội những năm tiếp theo, đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc đổi mới trên địa bàn xã, Đảng bộ, chính quyền tiến hành kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đề ra những nhiệm vụ cụ thể phát triển kinh tế xã hội phù hợp với thực tế địa phương.

Giai đoạn này nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Dân Lực hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những hạn chế, tồn tại của một thời kì dài trong cơ chế quản lí quan liêu, bao cấp, mặt khác phải đổi mới tư duy, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn việc thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về việc đổi mới quản lí kinh tế trong nông nghiệp. Có thể nói đây là nghị quyết mở đường cho thời kì đổi mới nông nhiệp, nông thôn Việt Nam.

Cuối năm 1988, việc giao đất theo tinh thần Nghị quyết 10 trên địa bàn xã Dân Lực đã được hoàn thành. Từ đây, quyền lợi của người nông dân được đảm bảo hơn, người dân được làm chủ mảnh ruộng của mình, mọi người hăng hái tăng gia sản xuất, các hộ gia đình đầu tư thâm canh nâng cao năng suất.

Từ năm 1986 đến 1990 trong sản xuất nông nghiệp, Đảng ủy, chính quyền xã Dân Lực đã có những chủ trương cụ thể phù hợp với sự phát triển của xã hội và sát thực với tình hình thực tiễn ở địa phương. Trong chỉ đạo sản xuất, nhất là từ khi có Nghị quyết 10, luôn quán triệt chủ trương phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân để khơi dậy tiềm năng sản xuất trong dân.

Đảng bộ, chính quyền xã đã chỉ đạo các ban ngành đoàn thể trong xã luôn quan tâm giúp đỡ các gia đình chính sách, người già cả neo đơn, xây dựng nhà tình nghĩa cho thương binh, trong những ngày lễ, ngày tết, các gia đình chính sách đều được thăm hỏi tặng quà. Các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao vẫn duy trì hoạt động, các làng đã thành lập được đội bóng đá, bóng chuyền...

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền,  nhân dân xã Dân lực hòa chung công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu đề ra, xây dựng xã hội chủ nghĩa vượt qua khó khăn để giành được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 10 đã làm thay đổi căn bản sản xuất nông nghiệp và diện mạo nông thôn xã Dân Lực, khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới, khẳng định sự nhạy bén, năng động của Đảng bộ. chính quyền xã  nhà. Đó cũng chính là động lực, là niềm tin để nhân dân Dân lực vững bước tiến lên trong công cuộc đổi mới.   

II. GIAI ĐOẠN 1991 - 1995

Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Dân Lực bước vào giai đoạn cách mạng mới trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới. Mặc dù, qua 5 năm đổi mới các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, song nhìn chung đời sống của nhân dân còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo còn cao; tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới cũng như trong nước có tác động không tốt đến sự ổn định và phát triển của địa phương. Đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi chính quyền và nhân dân Dân Lực phải đoàn kết, năng động, sáng tạo đưa kinh tế phát triển, nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân.

Để đạt được chỉ tiêu về lương thực, thực phẩm, xã Dân Lực đã có những giải pháp chỉ đạo như: mở rộng diện tích sản xuất trên cơ sở tận dụng quỹ đất hiện có, khai hoang phục hóa; thực hiện chuyển dịch cơ cấu giống lúa, thay dần các giống lúa cũ bằng các giống lúa lai, lúa thuần chủng có năng xuất cao; làm tốt công tác tưới tiêu, làm thủy lợi nội đồng, từng bước kiên cố hóa hệ thống kênh mương. Vụ đông vẫn được xác định là vụ sản xuất chính góp phần nâng cao sản lượng lương thực. Có thể nói đây là những chủ trương hết sức đúng đắn góp phần đưa nông nghiệp xã Dân Lực có những bước phát triển mới.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội ở địa phương, nhân dân xã Dân Lực đã vượt lên khó khăn để dành được những thắng lợi trên mọi lĩnh vực: diện tích cây trồng được mở rộng, tổng sản lượng lương thực tăng lên đáng kể, chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chủng loại, kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Trên đà những thắng lợi trên, Đảng bộ, chính quyên và nhân dân xã Dân Lực vững chắc tiến lên trên con đường đổi mới.

Trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp, từng bước phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, các HTX tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý, cơ chế khoán theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị; đồng thời tổ chức lực lượng quần chúng tiếp tục hoàn chỉnh thủy nông, cải tạo đồng ruộng, tạo cơ sở động viên các hộ xã viên chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, giống lúa nhằm mở rộng diện tích cấy 2 vụ lúa và tăng diện tích sản xuất vụ ngô đông; cải tạo vườn tạp, tận dụng mọi khả năng đất gò, bãi... phát triển kinh tế hộ theo mô hình VAC và du nhập ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo việc làm, tăng thu nhập cho xã viên.

Đảng bộ tích cực chỉ đạo thực hiện chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đưa các giống lúa mới, giống ngô lai có năng suất cao vào sản xuất thay thế dần cho cây khoai lang.

Thời tiết trong những năm 1991 - 1993 diễn biến hết sức phức tạp, thiên tai liên tiếp xảy ra. Vụ đông xuân 1991 - 1992 nắng hạn kéo dài, vụ mùa cơn bão số 6 gây thiệt hại về năng suất lúa, vụ đông xuân 1992 - 1993 rét đậm rét hại làm mất mạ, chết lúa phải cấy đi cấy lại mới đảm bảo được diện tích. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã không ngừng phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái vượt lên khó khăn, gieo trồng hết diện tích; đồng thời, coi trọng việc nạo vét, tu sửa kênh mương đảm bảo tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh và chăm bón tốt...

Nhờ sự chỉ đạo toàn diện và đồng bộ của Đảng bộ, chính quyền cộng với sự cố gắng vươn lên không ngừng của nhân dân trong xã, tình hình kinh tế xã hội ở xã Dân Lực đã có những bước chuyển đáng ghi nhận.

Việc triển khai đồng bộ các biện pháp tổ chức thực hiện trên đã đem lại những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong những năm 1993 - 1995 và hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995.

Năm 1993, thực hiện Chỉ thị 07 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết định 117 của UBND tỉnh Thanh Hoá (29/1/1993), Dân Lực đã thực hiện giao đất ổn định và lâu dài cho nhân dân. Đảng uỷ chủ trương tổ chức cho nhân dân được học tập Nghị quyết của tỉnh, thành lập Hội đồng giao ruộng của xã, mỗi đội sản xuất có một tiểu ban. Việc giao đất được xã chỉ đạo thực hiện một cách công bằng, dân chủ.

Nhờ sự chỉ đạo toàn diện và đồng bộ của Đảng bộ, chính quyền cùng với sự cố gắng vươn lên không ngừng của nhân dân trong xã, tình hình kinh tế xã hội ở xã Dân Lực đã có những bước chuyển đáng ghi nhận. Diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lúa không ngừng được nâng lên. Tổng sản lượng lương thực quy thóc, bình quân lương thực đầu người không ngừng tăng.

    Sản xuất nông nghiệp phát triển đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, tính đến năm 1995, ngành chăn nuôi ở xã vẫn giữ vững và có xu hướng phát triển. Đàn lợn, đàn trâu bò liên tục tăng. Nhiều hộ có giá trị thu nhập cao từ phát triển chăn nuôi. Số hộ khá và giàu tăng, số hộ nghèo đói giảm dần.

Việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ được Đảng bộ, chính quyền xã đặc biệt chú trọng. Đưa cây ngô lai thành cây chủ lực, cùng với các loại rau màu khác như, khoai lang, đậu, lạc cũng cho thu hoạch khá, Vụ đông đang dần trở thành một vụ chính của người dân xã Dân Lực.

Với những chủ trương đúng đắn, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã khơi dậy được sức mạnh toàn dân, làm tốt công tác kiên cố hóa hệ thống kênh mương, góp phần chủ động tưới tiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân canh tác, đưa năng suất cây trồng ngày một lên cao.

Giao thông nông thôn cũng được quan tâm chỉ đạo. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, những con đường làng ngõ xóm xưa kia gồ ghề, lầy lội dần dần được cải tạo, hệ thống kênh mương từng bước được bê tông hóa.

Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, trên mặt trận văn hóa xã hội cũng được ưu tiên phát triển.

Phong trào xóa đói giảm nghèo được quan tâm lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền đã quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các gia đình phát triển kinh tế vươn lên thoát nghèo.

Giáo dục có những bước tiến đáng kể, mặc dù cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng thầy và trò trường PTCS Dân Lực vẫn thi đua dạy tốt - học tốt. Năm 1993 - 1994, Trường PTCS Dân Lực được chia tách thành Trường Tiểu học Dân Lực và Trường THCS Dân Lực. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng bằng nỗ lực của các thầy cô giáo, với sự động viên của các cấp ủy, chính quyền, chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ nét, tỉ lệ học sinh đậu vào trường THPT ngày càng cao. Công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ đạt kết quả cao, hàng năm luôn vận động được 98% trẻ em trong độ tuổi đến trường.

Công tác y tế có nhiều khởi sắc, nhất là công tác y tế dự phòng. Các phong trào như: tiêm vắc xin cho trẻ, chương trình PAM chăm sóc trẻ và bà mẹ mang thai... được triển khai hiệu quả. Công tác vệ sinh đường làng ngõ xóm, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh được duy trì và đạt hiệu cao. Công tác kế hoạch hóa gia đình luôn được Đảng bộ, chính quyền xã nhà,  ngành y tế, Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã quan tâm sâu sát, tỉ lệ sinh con thứ ba hàng năm giảm dần.

Mặc dù đây là thời bình nhưng nguy cơ bất ổn xã hội vẫn tiềm ẩn, nhất là khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, chính quyền tập trung lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu bạo loạn, chia rẽ của kẻ thù.

Lực lượng dân quân được huấn luyện thường xuyên, mỗi năm đều tổ chức diễn tập theo kế hoạch của huyện đội, xã đội. Công tác đăng kí quân dự bị động viên được tiến hành thường xuyên. Công tác động viên thanh niên nhập ngũ luôn hoàn thành tốt, hàng năm giao quân đều đạt và vượt mức chỉ tiêu.

Công tác an ninh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, toàn xã có các tổ an ninh ở các thôn, Ban Công an xã luôn có phương án sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bạo loạn, gây rối trật tự, trị an, giải quyết được nhiều vụ việc phức tạp, giữ vững trật tự an ninh trong xã.

Song song với việc làm trong sạch đội ngũ, công tác bồi dưỡng, giáo dục và phát triển đảng viên luôn được Đảng bộ quan tâm. Đảng bộ đã tổ chức cho nhiều thanh niên tham gia học lớp cảm tình Đảng và xét kết nạp cho những thanh niên ưu tú đứng vào đội ngũ của Đảng.

Như vậy, trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động, nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt, Đảng bộ Dân Lực, chính quyền xã đã đạt thành tích khả quan trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.

Hoạt động của Đảng ủy,  HĐND, UBND, MTTQ xã đạt hiệu quả cao trên tất cả các mặt, đặc biệt là trên lĩnh vực quản lí điều hành, luôn đề cao trách nhiệm trước dân đưa xã Dân Lực tiến nhanh, tiến vững chắc trong công cuộc đổi mới và đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.

Các tổ chức đoàn thể như, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân... đều có những hoạt động phong phú, thiết thực đóng góp vào sự nghiệp phát triển ở địa phương. Đặc biệt vai trò Mặt trận Tổ quốc luôn đi tiên phong trong các tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các phong trào như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, xây dựng quỹ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quyên góp giúp đồng bào vùng lũ lụt, ủng hộ nhân dân Cu Ba... Mặt trận Tổ quốc luôn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, giới thiệu những người có đức, có tài ứng cử vào Hội đồng nhân dân các cấp.

Để phù hợp với cơ chế quản lí mới, thực hiện chỉ đạo của cấp trên thì Đảng ủy, chính quyền xã Dân Lực đã quyết định giải thể HTX mua bán, HTX tín dụng và HTX nông nghiệp. Toàn bộ việc quản lí ruộng đất, tài sản và điều hành sản xuất giao cho UBND xã. Đồng thời thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng yêu sản xuất trong giai đoạn mới.

Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực đã giành được những thành tựu to lớn và toàn diện. Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, diện mạo nông thôn thay đổi nhanh chóng đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới trong cả nước. Mặc dù trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã thể hiện là người lãnh đạo sáng suốt, vạch ra những định hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản, cụ thể cho từng giai đoạn đối với từng mặt kinh tế - xã hội. Qua thực tiễn của quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, với vai trò tiên phong của mình, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chúng thành một khối thống nhất nhằm phát huy cao độ mọi tiềm năng, phát huy truyền thống lịch sử của địa phương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển. Những thành công của những năm đổi mới tuy chưa nhiều, nhưng là cơ sở vững chắc để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực vững bước trên con đường đổi mới cho những năm tiếp theo.

III.  GIAI ĐOẠN 1996 - 2000

Cũng như các địa phương khác trong huyện, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực luôn được coi là mặt trận hàng đầu. Sau khi thực hiện khoán 10, nhất là sau khi giao đất ổn định, lâu dài cho nông dân, nông nghiệp có bước phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ ngàn đời nay, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực là quá trình vật lộn với mưa dông, nắng hạn để làm ra củ khoai, hạt thóc. Ngay vụ chiêm xuân 1996, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực phải trải qua trận rét đậm ảnh hưởng lớn đến vật nuôi, cây trồng. Suốt nhiều ngày liên tục, nhiệt độ luôn xuống dưới 100C, Cấp ủy và chính quyền đã tập trung chỉ đạo nhân dân chống rét cho lúa và đàn gia súc.

Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã tập trung lãnh đạo: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt quan tâm phát triển sản xuất vụ đông theo hướng mở rộng diện tích và hiệu quả kinh tế trên mỗi đơn vị canh tác.

Thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực tập trung chỉ đạo việc thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp thay thế mô hình HTX nông nghiệp trước kia. Hơn 20 năm phát triển, hợp tác xã nông nghiệp ở xã Dân Lực đã đóng góp tích cực trong việc xây dựng và thúc đẩy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở địa phương, giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức sản xuất. Sự ra đời mô hình hợp tác xã mới là bước đi tất yếu trong quá trình đổi mới quản lí nông nghiệp ở nông thôn. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chức năng cung ứng các dịch vụ cho sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống, chuyển giao các tiến bộ khoa học kĩ thuật...Đây là mô hình hợp tác xã mới phù hợp với việc chuyển đổi trong quản lí nông nghiệp giai đoạn này, tuy nhiên do nhiều lí do hoạt động của hợp tác xã gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại hình dịch vụ khác.

Cũng trong thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã đã lãnh đạo nhân dân thực hiện Chỉ thị 13/CT-TU ngày 3 tháng 9 năm 1998 của Tỉnh ủy về việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ lên ô thửa lớn. Trước đây, trung bình mỗi hộ có từ 5 đến 7 thửa ruộng, phân tán ở nhiều xứ đồng. Khi sản xuất phát triển đã nảy sinh những bất cập, nhất là việc đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng, chuyển dịch cơ cấu và đưa sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Dưới sự chỉ đạo của cấp trên Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong xã đã phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân, tăng cường công tác tuyên truyền để nhân dân thấy rõ lợi ích của việc đổi điền dồn thửa. Khi tiến hành phải đảm bảo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và dân chủ”, lấy thôn làm đơn vị chuyển đổi, ổn định hạng đất để tính thuế. Nhờ chuẩn bị chu đáo, được sự đồng thuận của đa số nhân dân, việc dồn điền đổi thửa ở xã Dân Lực đã đạt kết quả tốt. Thành công này góp phần quan trọng để địa phương tiếp tục quy hoạch lại đồng ruộng, đất đai được tích tụ theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

Giai đoạn này, Đảng bộ, chính quyền xã tập trung chỉ đạo về chương trình giống lúa lai, kiên cố hóa kênh mương nội đồng.

Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, biện pháp linh hoạt của chính quyền, sự cần cù, sáng tạo của nhân dân, sản xuất ở xã Dân Lực không ngừng phát triển. Năng suất lúa bình quân những năm 1996 đến 1998 thường đạt trên 90 tạ/ha/năm, thì đến năm 1999 đạt 100 tạ/ha/năm, vụ chiêm xuân năm 2000 đạt trên 60 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực, bình quân lương thực đầu người không ngừng tăng.

Chăn nuôi giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến.

Phong trào trồng cây, cải tạo vườn tạp tiếp tục được chú ý. Các hộ đã mạnh dạn đưa các giống cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao như, táo lai, hồng xiêm, ổi…thay cho những giống cũ.

Ngành nghề, dịch vụ, thương nghiệp có sự phát triển đáng kể. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đang được thể hiện sinh động, những máy móc đang dần thay thế lao động thủ công trong việc làm đất, bơm nước, vận tải, máy làm đất, xay xát, xẻ gỗ... Ngoài lao động từ dịch vụ, ngành nghề, mỗi năm có khoảng 17% lao động của xã đi làm ăn xa.

Văn hóa xã hội giai đoạn này có chuyển biến mạnh mẽ. Sau hơn mười năm đổi mới, đời sống kinh tế xã hội có bước phát triển, nhu cầu về văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên. Các phương tiện nghe nhìn như: ti vi, đài …. ngày càng phổ biến.

Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là lớp trẻ. Lối sống thực dụng len lỏi vào làng quê. Các hủ tục lạc hậu như ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín, dị đoan có xu hướng hồi phục.

Từ năm 1995, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, sau đó là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Trên cơ sở hai cuộc vận động này, Chính phủ và Thường trực Mặt trận Tổ quốc chính thức phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đảng bộ, chính quyền đã chỉ đạo các tổ chức đoàn thể triển khai học tập đến toàn thể nhân dân và có kế hoạch cụ thể đưa các cuộc vận động trên thành một phong trào thi đua rộng khắp trong toàn dân.

Các phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “xây dựng gia đình văn hóa mới” tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào đã khơi dậy nét đẹp văn hóa ngàn đời của làng quê Việt Nam như, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, nết thảo hiền, đức hiếu nghĩa, thực sự coi gia đình là tế bào của xã hội, qua đó giáo dục các thành viên. Năm 1996, toàn xã có 55% gia đình được cấp giấy công nhận gia đình văn hóa, đến năm 2000, số gia đình văn hóa của xã đạt trên 67%.

Năm 1996, trường Mầm non được chuyển đổi từ mẫu giáo Dân Lực sang trường Mầm Non bán công Dân lực với 196 em và được chia làm 8 lớp. Giai đoạn 1996 - 2000 cả 3 trường Trường THCS xã Dân Lực, trường Tiểu Học, Trường Mầm Non bán công Dân Lực đều có nhiều cố gắng, chất lượng dạy và học của các trường không ngừng được nâng lên, nhiều năm liên tục cả 3 trường đạt trường tiên tiến cấp huyện.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh môi trường của trạm y tế được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Trạm y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ thầy thuốc, hàng năm khám và điều trị ban đầu cho hàng ngàn lượt người. Giai đoạn này trạm tiếp tục tham mưu cho lãnh đạo địa phương đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tiêu và giếng nước hợp vệ sinh, một mặt vừa nâng cao đời sống của nhân dân, mặt khác để ngăn ngừa các dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Kết quả chưa thực sự cao nhưng cũng đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, tỉ lệ sinh con thứ 3 ở địa phương giảm mạnh.

Công tác xóa đói, giảm nghèo và chính sách xã hội được thực hiện nghiêm túc, xã đã liên hệ với ngân hàng chính sách cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất. Nhờ vậy số hộ thuộc diện đói, nghèo liên tục giảm. Địa phương thực hiện nghiêm các chế độ chính sách xã hội, vận động xây dựng quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, luôn hoàn thành vượt mức các cuộc vận động nhân đạo.

Công tác quốc phòng - an ninh trên địa bàn luôn được giữ vững, tuy vậy Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực cũng nhận thấy cần phải cố gắng hơn nữa để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới như, tăng cường tập duyệt phương án chống gây rối, bạo loạn, lật đổ; phát huy dân chủ phải đi kèm với tăng cường kĩ cương phép nước, tránh bị lợi dụng gây mất đoàn kết ở địa phương.

IV.  GIAI ĐOẠN  2000 - 2005

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực thực hiện nhiệm vụ giai đoạn này bằng một sự kiện quan trọng, năm 2000 Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XV được tổ chức với tinh thần: Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới, Đại hội đã đi sâu đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ giai đoạn vừa qua, khẳng định những thành tích đạt được trong 15 năm đổi mới, đặc biệt là việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội nhiệm kì vừa qua là to lớn và căn bản, tạo tiền đề để địa phương đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở bước cao hơn.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân luôn đoàn kết, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn vươn lên giành nhiều thắng lợi to lớn trên các mặt kinh trế, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Văn hóa xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng được cải tạo, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.

Đảng bộ, chính quyền coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp một cách toàn diện cả về trồng trọt về chăn nuôi. Thực hiện đồng bộ các biện pháp thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện pháp kĩ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất hai vụ lúa, mở rộng diện tích vụ đông trên đất 2 lúa, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Diện tích lúa lai của xã đạt 50 - 60% diện tích gieo cấy. Tiếp tục hoàn chỉnh công tác thủy lợi để phục vụ sản xuất...

Dịch vụ, thương nghiệp, việc làm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ngày càng thể hiện rõ nét ở Dân Lực. Trong sản xuất nông nghiệp, ngành nghề, lao động thủ công giảm nhanh chóng, thay vào đó là các loại máy móc ngày càng nhiều. Một số công đoạn trong sản xuất như: làm đất, vận chuyển, tuốt lúa...hầu hết bằng cơ giới. Các hộ làm nghề như: tiểu thủ công nghiệp, làm gạch, đan lát, máy cưa, gò hàn, sửa chữa...thu hút số lao động lớn của địa phương. Số lao động thoát li nông nghiệp mỗi năm một tăng, đến năm 2004 có khoảng 1.500 lao động.

Cơ sở vật chất tiếp tục được cải tạo, xây mới, giai đoạn này địa phương đã cải tạo, nâng cấp, xây mới được một số công trình như: nâng cấp trạm bơm tiêu úng, xây kênh bê tông và một số kênh mương khác.

Đây là giai đoạn giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Năm học 2002 -2003 Trường Tiểu học xã nhà đã được Bộ giáo dục và đào tạo công nhận là trường chuẩn quốc gia mức độ I. Cũng từ năm học 2001 - 2002, Bộ Giáp dục - Đào tạo tiến hành thay sách giáo khoa ở tiểu học, đến năm học 2003 - 2004 thực hiện thay sách giáo khoa ở cấp trung học cơ sở. Cùng với việc tiến hành thay sách giáo khoa, Bộ Giáo dục - Đào tạo chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt, chưa bao giờ thiết bị dạy học được trang bị đầy đủ như giai đoạn này. Tỉ lệ học sinh giỏi, học sinh tiên tiến ở các trường tăng lên. Nhiều năm, các trường đạt trường tiên tiến cấp huyện, số cháu đậu vào trường THPT đạt 60% đến 70%, 20 đến 30 cháu đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng. Trung tâm giáo dục cộng đồng, Hội Khuyến học hoạt động hiệu quả, đóng góp xứng đáng vào phong trào giáo dục của xã.

Bên cạnh đó Đảng ủy, chính quyền cũng đã tập trung chỉ đạo và có biệp pháp hữu hiệu nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ ở trạm y tế. Cơ sở vật chất cũng được tăng cường nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác khám chữa bệnh. Công tác vệ sinh, môi trường được quan tâm chỉ đạo, đến năm 2004, toàn xã có 80% số hộ dùng nước sạch, 29% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh. Hàng năm, trạm y tế khám, điều trị được từ 2.000 đến 2.500 lượt người. Các hoạt động y tế khác cũng thu được kết quả khá, đến năm 2004 tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 0,7%.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới và làng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Năm 2000, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có công văn số 33/VHTT hướng dẫn khai trương xây dựng làng văn hóa. Đảng ủy, chính quyền nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội ở địa phương, góp phần quan trọng để thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới. Từ năm 2000 đến năm 2002, xã Dân lực đã tổ chức khai trương xây dựng làng văn hóa với 8/8 thôn trong toàn xã. 8/8 thôn đề xây dựng được hương ước, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, khôi phục nét đẹp văn hóa ngàn đời của cha ông còn tiềm ẩn trong nhân dân. Hàng năm, có khoảng 75% gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Công tác thông tin, tuyên truyền và thể dục, thể thao được duy trì và tiếp tục phát triển.

Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” và “xóa đói giảm nghèo” được Đảng bộ và nhân dân quan tâm đúng mức. Các đối tượng chính sách và gia đình chính sách được địa phương quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ vươn lên trong cuộc sống.

Công tác quốc phòng, an ninh: luôn được giữ vững. Hàng năm, địa phương đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, huấn luyện quân sự và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Lực lượng dân quân được biên chế đủ 2% dân số, thường xuyên tham gia diễn tập phòng thủ, phòng chống bão lụt, chống gây rối, bạo loạn, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương. Lực lượng công an tăng cường cả số lượng và chất lượng, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, giữ vững trật tự trị an và thực thi pháp luật ở địa phương.

V.  GIAI ĐOẠN  2005 - 2010

Trong niềm vui chung của những thành tích đạt được  năm 2005 Đảng bộ xã nhà long trọng tổ chức Đại hội lần thứ XVI tại hội trường xã.  Đại hội Đảng bộ lần này diễn ra trong điều kiện tình hình kinh tế đất nước đang thu được những thắng lợi quan trọng. Sau gần 20 năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kì trước là tiền đề quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực thực hiện nhiệm vụ giai đoạn mới.

Bên cạnh những thuận lợi cho việc phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, chúng ta còn gặp không ít khó khăn: thiên tai, dịch bệnh nhiều, chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động thiếu việc làm, giá vật tư sản xuất cao, giá nông sản thấp, khó tiêu thụ, một bộ phận nông dân đời sống còn thấp... Song với tinh thần nỗ lực, phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã, xã Dân Lực đã đạt được những thành tích quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn này là tiến hành dồn điền đổi thửa lần thứ hai. Thực hiện Nghị quyết của cấp trên thì Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo các thôn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, làm cho nhân dân thấy rõ việc tích tụ ruộng đất, bước đầu là dồn điền đổi thửa là bước đi tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhờ có kế hoạch sát đúng của chính quyền và làm tốt công tác tuyên truyền, phần đông nhân dân đều tự giác chấp hành. Cũng qua lần điều chỉnh ruộng đất này, địa phương quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015, dành đất cho khu vực dân cư, các công trình phúc lợi như: trung tâm văn hóa, thể thao, giao thông... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Nhìn chung sản xuất giai đoạn này luôn đan cài những thuận lợi và khó khăn. Cán bộ và nhân dân trong x㠓thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong điều kiện phải đương đầu với những khó khăn, thử thách. Thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, giá cả thị trường biến động mạnh, tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Dịch cúm gia cầm liên tiếp xảy ra, dịch tai xanh ở lợn bùng phát. Ngay từ đầu nhiệm kì địa phương thiếu ổn định chính trị, một số cán bộ có biểu hiện tiêu cực, lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút”([3]).

Đứng trước tình hình trên, với sự đoàn kết, quyết tâm cao, Đảng ủy, chính quyền xã nhà đã tập trung lãnh đạo, mau chóng ổn định tình hình, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức đoàn thể, cán bộ và nhân dân trong xã vượt qua mọi khó khăn, từng bước hoàn thành mục tiêu đề ra. Kinh tế tăng trưởng khá, cơ sở hạ tầng được cải tạo, lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền được củng cố, khối đoàn kết được tăng cường, hệ thống chính trị được củng cố và chuyển biến tích cực, bộ mặt nông thôn không ngừng được đổi mới.

Dưới sự lãnh đạo  nhân dân Dân Lực đoàn kết một lòng vững bước vượt qua mọi khó khăn, đưa quê hương ngày càng phát triển, trong đó nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, nâng dần tỉ trong công nghiệp, dịch vụ, việc làm. Đường giao thông liên thôn, liên xã đã được bê tông hóa tạo điều kiện đi lại thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện các hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ sửa chữa nhỏ, may mặc…ven trục đường.

Về văn hóa - xã hội: Đây là giai đoạn chúng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết trung ương V khóa VIII về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kinh tế phát triển, người dân ngày càng có điều kiện hưởng thụ các thành tựu khoa học, kĩ thuật phục vụ nhu cầu giải trí và hiểu biết của con người. Tuy nhiên, đây cũng là lúc các mặt trái của cơ chế thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Những văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống thực dụng, những biến thái tiêu cực trong đời sống xã hội như: nạn ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín dị đoan... có điều kiện phát triển. Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa càng trở nên cấp thiết và được Đảng bộ, chính quyền xã nhà quan tâm chỉ đạo.

Trong thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã dân Lực tiếp tục quan tâm chỉ đạo phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Các đơn vị đều đầu tư xây dựng nhà văn hóa, xã có sân thể thao, hàng năm tổ chức các cuộc thi của các đoàn thể, tham gia văn nghệ ở huyện... tạo nên sự hoạt động phong phú ở địa phương. Đặc biệt tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng làng văn hóa đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa mới, vừa mang bản sắc địa phương, vừa tiếp thu những yếu tố văn hóa thời đại.

Giai đoạn này chất lượng giáo dục của các trường không ngừng được nâng lên Cơ sở vật chất được địa phương quan tâm xây dựng. Nhờ đó, tỉ lệ lên lớp và được công nhận tốt nghiệp đạt 99%-100%, mỗi năm có 50 – 70 cháu đậu đại học, cao đẳng.

Công tác giáo dục tiếp tục ổn định và phát triển. Cơ sở vật chất nhà trường được cải tạo. Địa phương đã đầu tư xây dựng văn phòng và các phòng học chức năng. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, tỉ lệ đạt chuẩn của trường Tiểu học và Trung học cơ sở đạt 100%. Do làm tốt công tác dân số, số lượng học sinh giảm dần, nhất là ở khối tiểu học.

Công tác y tế luôn được chú trọng quan tâm.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng dân quân, quân dự bị và lực lượng công an. Coi lực lượng này là công cụ chuyên chính ở cơ sở. Bởi vậy, luôn chăm lo xây dựng lực lượng có lập trường tư tưởng và bản lĩnh cách mạng vững vàng, sẵn sàng chiến đấu khi xảy ra chiến tranh, đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của kẻ địch. Đồng thời quản lí tốt quân dự bị, thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ.

Lực lượng công an luôn được củng cố và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi năm công an xã đã giải quyết hàng chục vụ việc theo đúng quy định và gửi hồ sơ lên cấp trên giải quyết những vụ việc vượt quá thẩm quyền, ngăn ngừa kịp thời không để vụ việc lớn phát sinh trên địa bàn. Thực hiện Nghị quyết 32/CP, Nghị định 146/BCA và Hướng dẫn 144 của Sở Công an Thanh Hóa về kiềm chế tai nạn giao thông, UBND xã đã thành lập tổ kiểm tra việc thực hiện luật giao thông trên địa bàn xã, góp phần làm giảm tai nạn giao thông trên địa bàn và làm cho nhân dân ý thức hơn trong việc chấp hành Luật Giao thông. Trên cơ sở Chỉ thị số 10/CT-CTUB của Chủ tịch UBND tỉnh và Đề án 375 của UBND tỉnh Thanh Hóa, địa phương đã thành lập được các tổ an ninh xã hội và tổ an ninh trật tự ở các thôn, góp phần giữ gìn trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm, chỉ đạo. Hội đồng nhân dân đã có nhiều đổi mới trong việc tổ chức các kì họp và giám sát thực hiện trong các hoạt động quản lí kinh tế, đất đai, trả lời, giải quyết những kiến nghị của cử tri có hiệu quả.

Qua việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và thực hiện cải cách hành chính ở cơ sở, hoạt động của HĐND và UBND ngày càng hiệu quả hơn. Trong công tác quản lí, thực hiện nghị quyết của Đảng ủy, HĐND xã và của cấp trên, UBND xã từng bước xây dựng tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ nhằm hướng tới mục tiêu chuyên nghiệp, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở địa phương hoạt động ngày càng hiệu quả. Đây là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân trong toàn xã. Đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện các phong trào ở địa phương như: toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ nhà dột nát cho người nghèo, phát triển kinh tế xã hội, tích cực học tập, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, hộ gia đình kinh doanh và sản xuất giỏi... phát huy tinh thần làm chủ của các hội viên thông qua đại diện là các đại biểu nhân dân, các tổ chức quần chúng, nhờ đó mà phát huy được sức mạnh của cộng đồng trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

VI.  GIAI ĐOẠN  2010 - 2016

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân lực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế trong điều kiện có nhiều thuận lợi, nhưng cũng nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả đạt được trong giai đoạn trước đã tạo tiền đề cho địa phương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, những điều kiện khách quan như bão lụt, giá cả biến động mạnh do lạm phát, dịch rầy nâu trên lúa, dịch bệnh phát sinh trên đàn lợn, cơ sở hạ tầng của địa phương còn hạn chế... là những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ của địa phương.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã đã ra sức khắc phục khó khăn đưa kinh tế tăng trưởng năm sau đều cao hơn năm trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, vượt qua các mục tiêu nghị quyết đề ra, phát huy nội lực, tiềm năng từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Từ điểm xuất phát mới chỉ đạt 3/19 tiêu chí năm 2010 đến hết năm 2015 xã đạt 14/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đời sống nhân dân ngày một nâng cao, thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước.

Trong gần 30 năm đổi mới cùng với xu thế phát triển chung của cả huyện, kinh tế xã nhà đã từng bước ổn định và đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Năm 2006 giá trị sản xuất mới đạt 50.056 tỷ đồng mà đến năm 2010 đã lên đến 85.726 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 14.25%/năm.

Trong chăn nuôi đến năm 2015 giá trị sản xuất hàng năm đã đạt 49,4 tỷ đồng/năm. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản đã mang về giá trị thu nhập lên đến 78,5% chiếm 29% tỷ trọng cơ cấu sản xuất. Năm 2016 sản xuất nông nghiệp tiếp tục thu được những thành tích khả quan. Năm 2016 Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 5.506,5 tấn, trong đó ngô  181,54 tấn. Đạt 122,3% so với kế hoạch đề ra. Bình quân lương thực đầu người đạt 633kg.

Về chăn nuôi, làm tốt công tác vệ sinh, phòng dịch, tổng đàn gia súc, gia cầm luôn có sự biến động về số lượng. Đàn gia cầm tăng đạt 18.000 con. Đàn lợn năm 2010 có 3986 con và đến năm 2016 giảm còn 785 con. Đàn trâu bò giảm do có máy móc thay thế trong nông nghiệp năm  2010 đàn trâu, bò có 670 con đến năm 2016 giảm còn 634 con.

Các ngành dịch vụ nông nghiệp từng bước phát triển đáp ứng được yêu cầu sản xuất và góp phần giải quyết việc làm ở nông thôn như cơ giới hóa đồng bộ đã được triển khai thực hiện. các ngành nghề phát triển mạnh như nghề xây dựng, cơ khí gò hàn, sản xuất vật liệu không nung, dịch vụ vận tải….

Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, các công trình phục vụ sản xuất, phúc lợi xã hội cũng thường xuyên được cải tạo và xây mới. Các công trình như trường học, trạm xá, hệ thống mương tưới, tiêu, đường giao thông nông thôn ngày càng được nâng cấp. Đến năm 2016, toàn xã đã có 20,8 km đường giao thông trục xã, liên thôn được bê tông hóa. Các hộ chính sách, hộ nghèo được chăm lo, giúp đỡ, đảm bảo đầy đủ các chế độ đãi ngộ. Hàng năm, bằng nhiều nguồn vốn từ các nguồn khác nhau.

    Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, sự vào cuộc tích cực của hệ thông chính trị, sự đồng lòng đoàn kết trong nhân dân xã nhà, đề án xây dựng nông thôn mới của xã đã thu được kết quả đáng mừng, hết năm 2015, đã hoàn thành được 14 trên 19 tiêu chí gồm: quy hoạch; giao thông; điện; bưu điện; nhà ở dân cư; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập nhân dân, giảm hộ nghèo và an sinh xã hội; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả trên địa bàn nông thôn; phát triển giáo dục - đào tạo; y tế; xây dựng đời sống văn hóa; xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội nông thôn.

Văn hóa, xã hội tiếp tục có bước phát triển mạnh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đang chuyển dần về chất. Hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, văn hóa xã hội ngày càng phát triển.  Năm 2014 quy ước, hương ước của các làng văn hóa đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình địa phương. Nếp sống văn hóa mới trong việc cưới việc tang và lễ hội được nhân dân trong xã chú trọng quan tâm. Đến năm 2016 đã có 8/8 thôn sử dụng nhạc hiếu trong đám tang.

Chất lượng học tập của các trường không ngừng được nâng cao. Năm học 2007 - 2008, hưởng ứng cuộc vận động Hai không của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong đó có nội dung nghiêm túc trong thi cử, đánh giá học sinh và chống bệnh thành tích trong giáo dục. Sang năm học 2008 - 2009, các nhà trường đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Nhiều năm liên tục các trường đều đạt tiên tiến cấp huyện. Năm học 2007 – 2008 Trường Trung học cơ sở xã nhà đã được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia lần thứ 1. Năm học 2008 – 2009 trường Tiểu học được công nhận là trường chuẩn quốc gia lần thứ 2. Đến năm học 2013 – 2014 trường THCS lại được công nhận là trường chuẩn Quốc gia lần thứ 2 và trường Tiểu học được công nhận chuẩn quốc gia lần thứ 3.

Trong các năm học khối trường đã luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhiên viên vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết và nhiệt tình. Hàng năm tỉ lệ học sinh giỏi khá luôn ở tốp đầu của huyện, học sinh yếu kém các năm học giảm mạnh. Chất lượng dạy và học luôn được đặt hàng đầu.

Chất lượng của trạm y tế ổn định, Đầu năm 2015, địa phương đã hoàn chỉnh việc xây dựng chuẩn Quốc gia về y tế  được tỉnh về kiểm tra và công nhận, có 45% số hộ có nhà tiêu, nhà tắm đạt vệ sinh, 82% số hộ dùng nước hợp vệ sinh, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng  13%, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dao động ở mức 0,6%.

Về quốc phòng - an ninh, dù đang trong điều kiện hòa bình nhưng tình hình tranh chấp lãnh thổ, nhất là trên Biển Đông diễn ra ngày càng phức tạp do Trung Quốc gây ra. Đảng ủy, chính quyền tăng cường củng cố lực lương dân quân, quân nhân dự bị thường xuyên luyện tập và sẵn sàng chiến đấu cao. Lực lượng công an thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương được quan tâm. Hoạt động của Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể ngày càng đi vào hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới. Liên tục trong nhiều năm Đảng bộ xã Dân Lực được Huyện ủy Triệu Sơn công nhận Đảng bộ Trong sạch, vững mạnh.

Nhìn lại chặng đường gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng bộ, chính quyền  và nhân dân Dân Lực đã thu được những kết quả rất đáng tự hào. Tuy nhiên, để đạt được kết quả ấy, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã gặp phải nhiều khó khăn, gian khổ. Là một xã sản xuất nông nghiệp thuần nông, mức sống của nhân dân còn thấp, bằng nội lực của mình, được sự giúp đỡ của cấp trên, sản xuất ở xã Dân Lực có bước phát triển đáng kể. Sản lượng lương thực ở địa phương không ngừng tăng lên, cơ cấu giống cây trồng vật nuôi ngày càng đa dạng, phong phú, giá trị kinh tế ngày càng cao. Ngành nghề, dịch vụ, thương mại phát triển phá thế độc canh cấy lúa, nâng cao dần nguồn thu của địa phương. Trong các ngành nghề sản xuất, sự xuất hiện của điện, cơ khí đang dần thay thế lao động thủ công theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, văn hóa - xã hội phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ cách mạng của địa phương. Bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống ấm no, hạnh phúc đang hiển hiện sinh động trên mảnh đất Dân Lực giàu truyền thống cách mạng. Chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn dài, nhưng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực chắc chắn sẽ vượt qua mọi khó khăn, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng và văn minh.

PHẦN KẾT

Vượt qua mọi khó khăn thử thách bước vào thời kì đổi mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã nhà đã vận dụng linh hoạt đường lối đổi mới của Đảng, nhà nước vào thực tế địa phương, từng bước đưa sản xuất phát triển. Từ một vùng quê người dân thiếu đói quanh năm, Dân Lực vươn lên thành một địa phương thâm canh lúa, tổng sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, góp phần cùng với cả huyện trở thành vùng kinh tế trọng điểm của Thanh Hóa.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Dân Lực càng được phát huy cao độ. Kinh tế của địa phương có bước phát triển mới, từ một nền kinh tế thuần nông đến nay tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, việc làm chiếm gần 50% tổng thu nhập của xã. Các công trình phúc lợi như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ngày càng thêm khang trang, hiện đại. Những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều, thay thế dần những mái tranh ẩm thấp trước kia. Cuộc sống mới đang đâm chồi nẩy lộc trên vùng quê Dân Lực giàu truyền thống yêu nước.

Trong quá trình dựng xây và phát triển của mình, phong trào có lúc thăng, lúc trầm, nhưng qua mỗi lần vấp ngã, Đảng bộ, chính quyền xã nhà lại rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm không ngừng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng ở địa phương, Đảng bộ, chính quyền xã nhà đã rút ra những bài học sau:

Một là: Quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

Hai là: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao. Coi trọng công tác quy hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để có đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu hiện tại và tương lai.

Ba là: Phát huy tinh thần dân chủ thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh với những sai trái, giữ nghiêm kỉ luật, tạo niềm tin trong nhân dân; xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, chính quyền, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bốn là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo lợi ích về tinh thần, vật chất và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nhằm tạo nên phong trào cách mạng rộng khắp trong nhân dân, động viên sức người, sức của vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

Phát huy truyền thống của quê hương, nhân dân xã Dân Lực cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng, kiên trung trong chiến đấu. Với những thành tích đạt được hơn 60 năm dựng xây, phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vươn lên giành thành tích to lớn hơn nữa, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

                                                    

 

       

 

 



 

 

  

Lịch sử hình thành xã Dân Lực

Đăng lúc: 10/04/2018 07:21:02 (GMT+7)

A. KHÁI QUÁT

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI

Xã Dân Lực thuộc huyện Nông Cống ngày xưa, được thành lập từ tháng 4 năm 1953 từ xã Tứ Dân cũ của huyện Nông Cống.

Dân Lực là một xã đồng bằng bán sơn địa, thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, diện tích tự nhiên 830.19 ha, với số dân 8.118 người, mật độ dân số là 978 người/km2 cách trung tâm huyện Triệu Sơn 3 km về phía Bắc và cách thành phố Thanh Hóa 20 km về phía Tây.

Phía Bắc giáp xã Thọ Phú và xã Thiệu Hòa của huyện Thiệu Hóa.

Phía Đông giáp xã Dân Quyền.

Phía Nam giáp xã Minh Dân – Thị Trấn và xã Minh Sơn.

Phía Tây giáp xã Thọ Thế, Thọ Tân

Vị trí địa lý của xã tương đối thuận lợi, Dân Lực có 2 tuyến đường quốc lộ: 47 và 47 C chạy qua. Việc giao lưu thông thương với các xã lân cận ; với trung tâm huyện và các huyện xung quanh khu vực rất thuận lợi. mạng lưới các tuyến đường xã, liên thôn được phân bố khá hợp lý cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa cũng như đi lại của người dân.

Khí hậu: Xã Dân Lực nằm trong khí hậu đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa, có ảnh hưởng một phần  của khí hậu vùng trung du tỉnh Thanh Hóa nên  nhiệt độ cao đều quang năm từ 25,00C – 39,800C, lượng mưa biến động theo mùa khô khá rõ ràng. Lượng mưa trung bình từ 1600- 1900mm. Còn chịu tác động sâu sắc của hai mùa gió trên một nền nhiệt và ẩm phong phú với độ ẩm cao nhất là 89%.

Sông ngòi: Nguồn cung cấp nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân xã Dân Lực chủ yếu được cung cấp từ Hệ thống kênh Nam từ đập Bái thượng đổ về. Nguồn nước được cung cấp cho các kênh mương nội đồng thông qua kênh tưới. Hệ thống kênh tiêu gồm 3 xã và sông suối tự nhiên. Hiện tại xã đã kiên cố hóa Tuyến kênh Nam và kênh N2 được 7,85/7,85 km nên rất thuận lợi cho việc tưới tiêu cho cây trồng.

Thủy lợi: Có kênh nam chạy dọc từ Bắc đến Nam và kênh N2 lấy nước từ kênh Nam để tưới tiêu cho đồng ruộng. Đây là một phần trong hệ thống thủy lợi sông Chu, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp ở địa phương.

Hệ thống giao thông:

Xã Dân Lực là nơi gặp gỡ và đi qua của 2 tuyến đường chính là Quốc lộ 47 và Quốc lộ 47 C và nhiều trục đường xã, trục đường thôn. Đường Quốc lộ 47 qua địa bàn xã dài 3.850m mặt rộng 12m và đường Quốc lộ 47C qua địa bàn xã dài 3.500m với mặt đường rộng 7m. Đường trục xã có 5 tuyến với tổng chiều dài 5.176m, hiện trạng bề rộng nền chủ yếu từ 4 đến 5m, mặt rộng từ 3 đến 4 m đã cứng hóa 4,38km.  Hệ thống giao thông thuận tiện đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã.

Những năm gần đây, nhờ kinh tế phát triển, Đảng bộ, chính quyền đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, huy động sự đóng góp của nhân dân, đường làng ngõ xóm từng bước được mở rộng, đổ bê tông, thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân, góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn.

II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ

Lịch sử hình thành và phát triển của xã Dân Lực luôn gắn liền với lịch sử huyện Nông Cống, Triệu Sơn. Qua nhiều lần thay đổi địa giới và tên gọi, đến năm Quý Hợi (1323) đời vua Trần Minh Tông hai chữ Nông Cống chính thức được nhắc đến với tư cách là một huyện của châu Cửu Chân. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”, được biên soạn vào thời Nguyễn([1]), thời gian này huyện Nông Cống có 9 tổng. Đến trước Cách mạng Tháng Tám, Nông Cống có 10 tổng gồm: Văn Xá, Cao Xá, Vạn Đồn, La Miệt, Lạc Thiện, Đô Xá, Đồng Xá, Cổ Định, Hữu Định, Lai Triều.

Xã Dân Lực thuộc tổng Đô Xá huyện Nông Cống. Sau 1954 lại tiếp tục được chia  và có 44 xã thuộc huyện Nông Cống trong đó có xã Dân Lực. Đến ngày 16-12-1964, tách 20 xã: Hợp Tiến, Hợp Thắng, Hợp Lý, Hợp Thành, Minh Châu, Minh Dân, Minh Sơn, Dân Lý, Dân Lực, Dân Quyền, An Nông, Vân Sơn, Nông Trường, Tiến Nông, Khuyến Nông, Thái Hòa, Tân Ninh, Đồng Tiến, Đồng Thắng, Đồng Lợi để thành lập huyện Triệu Sơn.

Xã Dân lực chính thức được thuộc huyện Triệu Sơn từ năm 1964. Năm 1991, thực hiện Nghị quyết 878 của UBND tỉnh Thanh Hóa thành lập thôn, xóm thay cho đội sản xuất trước đây, các đội sản xuất của HTX nông nghiệp toàn xã được lấy là đơn vị xóm, cùng với việc bầu chức danh thôn trưởng. Trước năm 1986 đến năm 1993 Dân Lực có 19 xóm. Từ năm 1993 đến năm 2005 xã Dân lực có 8 thôn và 1 xóm gồm: Ân Mọc, Tiên Mộc, Xuân Tiên, Thị Tứ, Thiện Chính, Đô Trang, Đô Xá, Phúc hải và Xóm 19. Từ năm 2005 đến nay Dân Lực tháp thôn và được chia làm 8 thôn là Ân Mọc, Tiên Mộc, Xuân Tiên, Thiện Chính,Thị Tứ, Đô Trang, Đô Xá, Phúc Hải.

Có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư nơi đây đã trải qua nhiều thế kỉ. Sự ra đời của đơn vị hành chính xã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

III. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA

1.  Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo

Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo là mạch nguồn xuyên suốt bao thế kỉ nay từ khi có con người đến mảnh đất Dân Lực khai hoang lập nghiệp. Có thể tổ tiên của họ từ phía Tây tràn xuống trong cuộc trường chinh đi mở đất vùng miền đồng bằng, hoặc từ ngoài Bắc vào, từ Nghệ An ra, hay từ Thiệu Hóa, Đông Sơn, hay từ Thọ Xuân lên lập nghiệp. Có người vì chống cường quyền, áp bức, hay bất đắc chí với xã hội đương thời tìm về miền đất bên dòng sông Hoàng này thấy chốn bình yên. Có người phận hèn, thân yếu, không có nổi miếng đất cắm dùi, phiêu bạt về đây sinh sống. Có người không cam chịu cảnh nghèo, thích phiêu du, có tầm nhìn xa, trông rộng, quyết ở lại để lập nghiệp, bởi thấy được tiềm năng còn ẩn chứa trên vùng đất bên dòng sông Hoàng này. Cũng có người đến chơi, hay đi làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, được dân nuôi dưỡng, mến cảnh, mến người, mà nên dâu, nên rể rồi thành quê của mình.

Vào thời Lê Thái Tông và Lê Thánh Tông chủ trương sửa sang lại hệ thống sông Nhà Lê đã cho khơi thông dòng chảy dòng sông Hoàng, đã khơi thông dòng chảy qua thành Lê Chích cũ rút nước cả hai khu đầm, hồ nói trên và đắp lại hệ thống đê điều. Nước rút đi, những cánh đồng cỏ bạt ngàn, với cây cối rậm rạp thay thế. Trên mảnh đất ấy, những cư dân đầu tiên đến đây chặt tre, đi rừng lấy nứa, gỗ để dựng nhà, phát cỏ cây, bụi rậm, bổ nhát cuốc đầu tiên, chính thức bước vào công cuộc biến đất hoang thành đồng ruộng màu mỡ, biến cánh đồng hoang vu thành xóm thôn trù phú. Đó là quá trình lao động đầy gian khổ, nhọc nhằn, đòi hỏi phải kiên nhẫn, thời gian không thể tính bằng năm tháng mà bằng thế hệ người của mỗi dòng họ.

Làm nghề nông ở xã Dân Lực trong điều kiện hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên luôn chịu cảnh hạn hán vào mùa khô, ngược lại vào mùa mưa nước từ sông Hoàng đổ về cướp đi hoa màu thì cực nhọc vô cùng. Bao mồ hôi, công sức của người dân kết tinh trên những hạt thóc, củ khoai bỗng chốc trôi theo sông nước.

Ngoài nghề trồng lúa nước, người dân ở  xã Dân Lực nhất là thôn Thị Tứ còn có nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ …

2. Truyền thống văn hóa

Từ xa xưa, nhân dân xã Dân Lực đã tạo dựng cho mình một truyền thống văn hóa đặc sắc. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong quá trình mở đất, dựng làng, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã đủ loại để tồn tại và phát triển.

Dễ thấy, trước đây các làng truyền thống ở Dân Lực đều có hệ thống đình chùa, đền miếu tương đối đặc sắc, phản ánh đời sống tinh thần của dân làng trong nền văn minh lúa nước. Tìm hiểu việc thờ thành hoàng ở các làng đều thấy nhân dân tôn thờ những nhân thần như Cao Sơn, Quận Vạn,  Quận lân, Quận Trinh, Nguyễn Hữu, Nguyễn Công, Nghè Bùi, Trịnh Đinh Thịnh….. là những người có công với đất nước, hay khai canh mở đất, lập làng.

Đặc biệt trong những năm 1949 - 1950 trong xã có Đình Phe thuộc thôn Xuân Tiên xã Dân Lực là nơi đặt Trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn  học tập và huấn luyện. Cạnh đình có 1 điếm canh và có 01 chuông uớc chừng cao 2 tầng 8 mái, có những chuông nặng tới vài trăm cân treo ở trên tầng mái cao nhất.

Năm 1958 khi đang cày đất trồng lúa người dân còn đào được 01 trống đồng Ngọc lũ ở khu đồng áng ma bây giờ. Trống đồng này đã được Sở văn hóa thông tin thu về trưng bày lưu giữ.

Về công trình kiến trúc chỉ còn lại 3 ngôi đình. Hàng năm các dòng họ tập trung đến để thờ thần Hoàng làng, theo các cụ kể lại:

Đình nhất thờ vị Cao Sơn chấn Đông Đại Dương.

Đình nhì thờ vị Linh Quan chấn Tây Đại Dương.

Đình ba thờ vị Thiên Trinh chúa bà Tốn Trầu.

3. Truyền thống yêu quê hương, đất nước

Thẳm sâu trong tâm hồn, cốt cách người Dân Lực là tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân các làng trong xã lại tôn thờ những người có công khai đất, lập làng làm thành hoàng. Qua việc tôn thờ họ là thần, thánh để tỏ lòng biết ơn những người có công với quê hương, đất nước, đồng thời cũng là để giáo dục, nhắc nhở thế hệ đang sống và muôn đời sau phát huy truyền thống yêu nước của quê hương.

 Trải qua nhiều thế kỉ nay, nhân dân xã Dân Lực đã cần cù lao động, biến vùng đất ấy thành những cánh đồng thẳng cánh cò bay cho bao mùa vàng no ấm. Qua quá trình ấy, nhân dân nơi đây đã tạo dựng nên nhiều giá trị vật chất và tinh thần phong phú, đó là nền tảng, là sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Dân Lực vượt mọi khó khăn, hoàn thành sự nghiệp cách mạng trên quê hương yêu dấu.

IV. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG GÓP PHẦN GIÀNH CHÍNH QUYỀN THẮNG LỢI (1930 - 1945)

1. Tình hình kinh tế, xã hội trong thời kì thống trị của đế quốc và phong kiến

    Về chính trị: Ở các làng, thực dân Pháp chủ trương duy trì bộ máy phong kiến cũ, để làm công cụ thống trị và bóc lột ở cấp làng xã, toàn quyền Đume từng nói: “duy trì trọn vẹn thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mỗi làng xã là một nước cộng hòa nhỏ độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên…Làng xã là một nước cộng hòa nhỏ phải cống nạp. Chúng ta xác định mức cống nạp tùy theo sự giàu có tổng thể của xã; còn chính làng xã phải tìm cách thu cống phẩm. Phương pháp này tạo cho làng xã một sức mạnh lớn, tránh được sự tiếp xúc trực tiếp giữa chính quyền của người Pháp với dân chúng”.

Đến 1939, sau cao trào dân chủ, chúng đặt thêm phó bang tá, trưởng đoàn tổng, tuần kiểm thôn để phối hợp chống phá cách mạng. Ngoài ra tập tục lệ làng còn có thêm hệ thống làng lão - những người có quyền định đoạt mọi công việc trong làng theo lệ làng, nhất là trong hội hè, lễ nghi, tế tự ...

Về kinh tế: Sau khi bình định xong nước ta, thực dân Pháp từng bước thực hiện quyền cai trị của chúng, ngày 23 tháng 6 năm 1894, Bộ trưởng Bộ thuộc địa pháp Delcase gửi thư cho toàn quyền Đông Dương thúc giục: “Khai thác những vùng lãnh thổ mà chúng ta chiếm được, thiết lập ở đó đồn điền, phát triển sản xuất ở thuộc địa bằng chính con đường phát triển thương mại với chính quốc”([2]), vua Khải định cũng đã đạo dụ về quyền mua tậu ruộng đất của người Pháp. Trải qua nhiều thập kỉ dưới chế độ áp bức của thực dân phong kiến, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Thực dân Pháp khuyến khích bọn địa chủ, nhà giàu tham lam mặc sức dùng mọi thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân. Vùng đất Nông Cống - Triệu Sơn phì nhiêu là thế mà bị bọn tư bản người Pháp và người Việt thi nhau chiếm đoạt, với hàng chục đồn điền, trang ấp. Khu vực xã Đồng Lợi ngày nay có ấp Hàn Thanh rộng 500 mẫu, các xã khu Dân Lý có ấp Nguyễn Hữu Ngọc với diện tích lên đến 1.000 mẫu...

Nhìn chung, dưới chế độ thực dân phong kiến, các địa chủ, tư sản người Việt và ngưới Pháp tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng đất của dân thông qua việc cầm cố, mua bán, cho vay nặng lãi. Vì vậy trước Cách mạng Tháng Tám, phần lớn ruộng đất nằm trong tay địa chủ, phú nông, số còn lại một phần là ruộng công như: ruộng tư văn, tư võ hàng tổng, ruộng phe giáp, đền, chùa, ruộng của dân nghèo chỉ chiếm diện tích nhỏ hầu hết là ruộng xa, xấu. Tuy nhiên, ở Dân Lực do ruộng đất ít nên số địa chủ lớn không nhiều. Số địa chủ cường hào ác bá hầu như không có.

Về văn hóa: Chính sách ngu dân của thực dân đế quốc đã để lại hậu quả hết sức nặng nề cho nhân dân địa phương. Đến đầu thế kỉ 20 cả tổng Đô chỉ có một trường học dạy chữ Hán với ít học sinh và một vài lớp học tư của các cụ đồ trong làng dạy Hán tự cho một số ít học trò. Học trò chủ yếu là học cho biết ít chữ để làm văn tự đơn từ, cúng bái... Đến năm 1927 Pháp cho mở một trường tiểu học gồm 3 lớp, dạy tiếng Pháp và tiếng quốc ngữ, nhưng chỉ có một số ít con nhà giàu theo học mong thi đỗ đạt để ra làm quan, hoặc làm chức sắc trong làng để kiếm lợi. Do đó trước Cách mạng tháng Tám, trên 90% dân số hoàn toàn mù chữ, kém hiểu biết về xã hội.

Hoạt động y tế, vệ sinh phòng bệnh càng tồi tệ hơn, trong làng xã không có hoạt động y tế của Nhà nước. Khi đau ốm, thai sản hầu hết là nhân dân chạy chữa bằng thuốc nam do thầy lang vườn, với dụng cụ thô sơ, lạc hậu, hoặc cúng bái, mê tín dị đoan. Đường làng  không được đắp hoặc tu sửa, cải tạo nên bẩn thỉu, ngõ xóm quanh co, nhỏ hẹp, ăn uống dùng nước giếng đất, giặt giũ, sinh hoạt bằng nước ao, sông hồ, bệnh dịch xảy ra liên tục, tỉ lệ trẻ em chết, mắc bệnh dịch tả, sởi, cúm rất cao. Tình trạng mê tín dị đoan, đồi phong, bại tục trong nhân dân rất nặng nề. Lại được bọn thống trị khuyến khích, chúng luôn lôi kéo nhân dân vào các cuộc tế lễ, rước sách ở các đền chùa, hội hè, hút sách, rượu chè, làm cho nhân dân luôn đắm chìm trong ngu muội, đói nghèo. Bọn chúng tuyên truyền nguyên nhân nghèo khổ do số phận, triệt tiêu đấu tranh giai cấp và cách mạng.

2. Phong trào cách mạng của nhân dân địa phương trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Là vùng quê có truyền thống yêu nước, những người con ưu tú của Nông Cống - Triệu Sơn đã nhanh chóng nhận ra chân lí thời đại, con đường cách mạng để cứu nước, cứu nhà. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hữu Lập, đồng chí Võ Danh Thùy (Tế Thắng, Nông Cống) đã về quê, làng Thổ Vị, tổng Cao Xá thành lập tiểu tổ “Hội đọc sách báo cách mạng” đầu tiên của Nông Cống. Tiếp thu ánh sáng cách mạng, nhiều phong trào đấu tranh của giới trí thức, học sinh, sinh viên đã nổ ra, điển hình là phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu.

B. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN  QUA CÁC GIAI ĐOẠN

I. GIAI ĐOẠN (1986 - 1990)

Bước vào những năm tám mươi của thế kỉ trước, nước ta đứng trước những thử thách nghiêm trọng, những hạn chế của cơ chế quản lí tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, sản xuất đình trệ. Những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân không đủ đáp ứng, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nước ta thật sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Đứng trước những thử thách khó khăn, nhân dân xã Dân lực đã phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vượt qua khó khăn để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, quê hương ngày thêm đổi mới. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội những năm tiếp theo, đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc đổi mới trên địa bàn xã, Đảng bộ, chính quyền tiến hành kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đề ra những nhiệm vụ cụ thể phát triển kinh tế xã hội phù hợp với thực tế địa phương.

Giai đoạn này nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Dân Lực hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những hạn chế, tồn tại của một thời kì dài trong cơ chế quản lí quan liêu, bao cấp, mặt khác phải đổi mới tư duy, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn việc thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về việc đổi mới quản lí kinh tế trong nông nghiệp. Có thể nói đây là nghị quyết mở đường cho thời kì đổi mới nông nhiệp, nông thôn Việt Nam.

Cuối năm 1988, việc giao đất theo tinh thần Nghị quyết 10 trên địa bàn xã Dân Lực đã được hoàn thành. Từ đây, quyền lợi của người nông dân được đảm bảo hơn, người dân được làm chủ mảnh ruộng của mình, mọi người hăng hái tăng gia sản xuất, các hộ gia đình đầu tư thâm canh nâng cao năng suất.

Từ năm 1986 đến 1990 trong sản xuất nông nghiệp, Đảng ủy, chính quyền xã Dân Lực đã có những chủ trương cụ thể phù hợp với sự phát triển của xã hội và sát thực với tình hình thực tiễn ở địa phương. Trong chỉ đạo sản xuất, nhất là từ khi có Nghị quyết 10, luôn quán triệt chủ trương phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân để khơi dậy tiềm năng sản xuất trong dân.

Đảng bộ, chính quyền xã đã chỉ đạo các ban ngành đoàn thể trong xã luôn quan tâm giúp đỡ các gia đình chính sách, người già cả neo đơn, xây dựng nhà tình nghĩa cho thương binh, trong những ngày lễ, ngày tết, các gia đình chính sách đều được thăm hỏi tặng quà. Các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao vẫn duy trì hoạt động, các làng đã thành lập được đội bóng đá, bóng chuyền...

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền,  nhân dân xã Dân lực hòa chung công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu đề ra, xây dựng xã hội chủ nghĩa vượt qua khó khăn để giành được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 10 đã làm thay đổi căn bản sản xuất nông nghiệp và diện mạo nông thôn xã Dân Lực, khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới, khẳng định sự nhạy bén, năng động của Đảng bộ. chính quyền xã  nhà. Đó cũng chính là động lực, là niềm tin để nhân dân Dân lực vững bước tiến lên trong công cuộc đổi mới.   

II. GIAI ĐOẠN 1991 - 1995

Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Dân Lực bước vào giai đoạn cách mạng mới trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới. Mặc dù, qua 5 năm đổi mới các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, song nhìn chung đời sống của nhân dân còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo còn cao; tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới cũng như trong nước có tác động không tốt đến sự ổn định và phát triển của địa phương. Đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi chính quyền và nhân dân Dân Lực phải đoàn kết, năng động, sáng tạo đưa kinh tế phát triển, nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân.

Để đạt được chỉ tiêu về lương thực, thực phẩm, xã Dân Lực đã có những giải pháp chỉ đạo như: mở rộng diện tích sản xuất trên cơ sở tận dụng quỹ đất hiện có, khai hoang phục hóa; thực hiện chuyển dịch cơ cấu giống lúa, thay dần các giống lúa cũ bằng các giống lúa lai, lúa thuần chủng có năng xuất cao; làm tốt công tác tưới tiêu, làm thủy lợi nội đồng, từng bước kiên cố hóa hệ thống kênh mương. Vụ đông vẫn được xác định là vụ sản xuất chính góp phần nâng cao sản lượng lương thực. Có thể nói đây là những chủ trương hết sức đúng đắn góp phần đưa nông nghiệp xã Dân Lực có những bước phát triển mới.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội ở địa phương, nhân dân xã Dân Lực đã vượt lên khó khăn để dành được những thắng lợi trên mọi lĩnh vực: diện tích cây trồng được mở rộng, tổng sản lượng lương thực tăng lên đáng kể, chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chủng loại, kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Trên đà những thắng lợi trên, Đảng bộ, chính quyên và nhân dân xã Dân Lực vững chắc tiến lên trên con đường đổi mới.

Trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp, từng bước phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, các HTX tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý, cơ chế khoán theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị; đồng thời tổ chức lực lượng quần chúng tiếp tục hoàn chỉnh thủy nông, cải tạo đồng ruộng, tạo cơ sở động viên các hộ xã viên chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, giống lúa nhằm mở rộng diện tích cấy 2 vụ lúa và tăng diện tích sản xuất vụ ngô đông; cải tạo vườn tạp, tận dụng mọi khả năng đất gò, bãi... phát triển kinh tế hộ theo mô hình VAC và du nhập ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo việc làm, tăng thu nhập cho xã viên.

Đảng bộ tích cực chỉ đạo thực hiện chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đưa các giống lúa mới, giống ngô lai có năng suất cao vào sản xuất thay thế dần cho cây khoai lang.

Thời tiết trong những năm 1991 - 1993 diễn biến hết sức phức tạp, thiên tai liên tiếp xảy ra. Vụ đông xuân 1991 - 1992 nắng hạn kéo dài, vụ mùa cơn bão số 6 gây thiệt hại về năng suất lúa, vụ đông xuân 1992 - 1993 rét đậm rét hại làm mất mạ, chết lúa phải cấy đi cấy lại mới đảm bảo được diện tích. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã không ngừng phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái vượt lên khó khăn, gieo trồng hết diện tích; đồng thời, coi trọng việc nạo vét, tu sửa kênh mương đảm bảo tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh và chăm bón tốt...

Nhờ sự chỉ đạo toàn diện và đồng bộ của Đảng bộ, chính quyền cộng với sự cố gắng vươn lên không ngừng của nhân dân trong xã, tình hình kinh tế xã hội ở xã Dân Lực đã có những bước chuyển đáng ghi nhận.

Việc triển khai đồng bộ các biện pháp tổ chức thực hiện trên đã đem lại những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong những năm 1993 - 1995 và hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995.

Năm 1993, thực hiện Chỉ thị 07 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết định 117 của UBND tỉnh Thanh Hoá (29/1/1993), Dân Lực đã thực hiện giao đất ổn định và lâu dài cho nhân dân. Đảng uỷ chủ trương tổ chức cho nhân dân được học tập Nghị quyết của tỉnh, thành lập Hội đồng giao ruộng của xã, mỗi đội sản xuất có một tiểu ban. Việc giao đất được xã chỉ đạo thực hiện một cách công bằng, dân chủ.

Nhờ sự chỉ đạo toàn diện và đồng bộ của Đảng bộ, chính quyền cùng với sự cố gắng vươn lên không ngừng của nhân dân trong xã, tình hình kinh tế xã hội ở xã Dân Lực đã có những bước chuyển đáng ghi nhận. Diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lúa không ngừng được nâng lên. Tổng sản lượng lương thực quy thóc, bình quân lương thực đầu người không ngừng tăng.

    Sản xuất nông nghiệp phát triển đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, tính đến năm 1995, ngành chăn nuôi ở xã vẫn giữ vững và có xu hướng phát triển. Đàn lợn, đàn trâu bò liên tục tăng. Nhiều hộ có giá trị thu nhập cao từ phát triển chăn nuôi. Số hộ khá và giàu tăng, số hộ nghèo đói giảm dần.

Việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ được Đảng bộ, chính quyền xã đặc biệt chú trọng. Đưa cây ngô lai thành cây chủ lực, cùng với các loại rau màu khác như, khoai lang, đậu, lạc cũng cho thu hoạch khá, Vụ đông đang dần trở thành một vụ chính của người dân xã Dân Lực.

Với những chủ trương đúng đắn, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã khơi dậy được sức mạnh toàn dân, làm tốt công tác kiên cố hóa hệ thống kênh mương, góp phần chủ động tưới tiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân canh tác, đưa năng suất cây trồng ngày một lên cao.

Giao thông nông thôn cũng được quan tâm chỉ đạo. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, những con đường làng ngõ xóm xưa kia gồ ghề, lầy lội dần dần được cải tạo, hệ thống kênh mương từng bước được bê tông hóa.

Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, trên mặt trận văn hóa xã hội cũng được ưu tiên phát triển.

Phong trào xóa đói giảm nghèo được quan tâm lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền đã quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các gia đình phát triển kinh tế vươn lên thoát nghèo.

Giáo dục có những bước tiến đáng kể, mặc dù cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng thầy và trò trường PTCS Dân Lực vẫn thi đua dạy tốt - học tốt. Năm 1993 - 1994, Trường PTCS Dân Lực được chia tách thành Trường Tiểu học Dân Lực và Trường THCS Dân Lực. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng bằng nỗ lực của các thầy cô giáo, với sự động viên của các cấp ủy, chính quyền, chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ nét, tỉ lệ học sinh đậu vào trường THPT ngày càng cao. Công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ đạt kết quả cao, hàng năm luôn vận động được 98% trẻ em trong độ tuổi đến trường.

Công tác y tế có nhiều khởi sắc, nhất là công tác y tế dự phòng. Các phong trào như: tiêm vắc xin cho trẻ, chương trình PAM chăm sóc trẻ và bà mẹ mang thai... được triển khai hiệu quả. Công tác vệ sinh đường làng ngõ xóm, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh được duy trì và đạt hiệu cao. Công tác kế hoạch hóa gia đình luôn được Đảng bộ, chính quyền xã nhà,  ngành y tế, Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã quan tâm sâu sát, tỉ lệ sinh con thứ ba hàng năm giảm dần.

Mặc dù đây là thời bình nhưng nguy cơ bất ổn xã hội vẫn tiềm ẩn, nhất là khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, chính quyền tập trung lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu bạo loạn, chia rẽ của kẻ thù.

Lực lượng dân quân được huấn luyện thường xuyên, mỗi năm đều tổ chức diễn tập theo kế hoạch của huyện đội, xã đội. Công tác đăng kí quân dự bị động viên được tiến hành thường xuyên. Công tác động viên thanh niên nhập ngũ luôn hoàn thành tốt, hàng năm giao quân đều đạt và vượt mức chỉ tiêu.

Công tác an ninh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, toàn xã có các tổ an ninh ở các thôn, Ban Công an xã luôn có phương án sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bạo loạn, gây rối trật tự, trị an, giải quyết được nhiều vụ việc phức tạp, giữ vững trật tự an ninh trong xã.

Song song với việc làm trong sạch đội ngũ, công tác bồi dưỡng, giáo dục và phát triển đảng viên luôn được Đảng bộ quan tâm. Đảng bộ đã tổ chức cho nhiều thanh niên tham gia học lớp cảm tình Đảng và xét kết nạp cho những thanh niên ưu tú đứng vào đội ngũ của Đảng.

Như vậy, trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động, nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt, Đảng bộ Dân Lực, chính quyền xã đã đạt thành tích khả quan trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.

Hoạt động của Đảng ủy,  HĐND, UBND, MTTQ xã đạt hiệu quả cao trên tất cả các mặt, đặc biệt là trên lĩnh vực quản lí điều hành, luôn đề cao trách nhiệm trước dân đưa xã Dân Lực tiến nhanh, tiến vững chắc trong công cuộc đổi mới và đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.

Các tổ chức đoàn thể như, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân... đều có những hoạt động phong phú, thiết thực đóng góp vào sự nghiệp phát triển ở địa phương. Đặc biệt vai trò Mặt trận Tổ quốc luôn đi tiên phong trong các tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các phong trào như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, xây dựng quỹ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quyên góp giúp đồng bào vùng lũ lụt, ủng hộ nhân dân Cu Ba... Mặt trận Tổ quốc luôn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, giới thiệu những người có đức, có tài ứng cử vào Hội đồng nhân dân các cấp.

Để phù hợp với cơ chế quản lí mới, thực hiện chỉ đạo của cấp trên thì Đảng ủy, chính quyền xã Dân Lực đã quyết định giải thể HTX mua bán, HTX tín dụng và HTX nông nghiệp. Toàn bộ việc quản lí ruộng đất, tài sản và điều hành sản xuất giao cho UBND xã. Đồng thời thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng yêu sản xuất trong giai đoạn mới.

Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực đã giành được những thành tựu to lớn và toàn diện. Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, diện mạo nông thôn thay đổi nhanh chóng đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới trong cả nước. Mặc dù trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã thể hiện là người lãnh đạo sáng suốt, vạch ra những định hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản, cụ thể cho từng giai đoạn đối với từng mặt kinh tế - xã hội. Qua thực tiễn của quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, với vai trò tiên phong của mình, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chúng thành một khối thống nhất nhằm phát huy cao độ mọi tiềm năng, phát huy truyền thống lịch sử của địa phương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển. Những thành công của những năm đổi mới tuy chưa nhiều, nhưng là cơ sở vững chắc để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực vững bước trên con đường đổi mới cho những năm tiếp theo.

III.  GIAI ĐOẠN 1996 - 2000

Cũng như các địa phương khác trong huyện, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực luôn được coi là mặt trận hàng đầu. Sau khi thực hiện khoán 10, nhất là sau khi giao đất ổn định, lâu dài cho nông dân, nông nghiệp có bước phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ ngàn đời nay, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực là quá trình vật lộn với mưa dông, nắng hạn để làm ra củ khoai, hạt thóc. Ngay vụ chiêm xuân 1996, sản xuất nông nghiệp ở xã Dân Lực phải trải qua trận rét đậm ảnh hưởng lớn đến vật nuôi, cây trồng. Suốt nhiều ngày liên tục, nhiệt độ luôn xuống dưới 100C, Cấp ủy và chính quyền đã tập trung chỉ đạo nhân dân chống rét cho lúa và đàn gia súc.

Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực đã tập trung lãnh đạo: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt quan tâm phát triển sản xuất vụ đông theo hướng mở rộng diện tích và hiệu quả kinh tế trên mỗi đơn vị canh tác.

Thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực tập trung chỉ đạo việc thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp thay thế mô hình HTX nông nghiệp trước kia. Hơn 20 năm phát triển, hợp tác xã nông nghiệp ở xã Dân Lực đã đóng góp tích cực trong việc xây dựng và thúc đẩy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở địa phương, giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức sản xuất. Sự ra đời mô hình hợp tác xã mới là bước đi tất yếu trong quá trình đổi mới quản lí nông nghiệp ở nông thôn. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chức năng cung ứng các dịch vụ cho sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống, chuyển giao các tiến bộ khoa học kĩ thuật...Đây là mô hình hợp tác xã mới phù hợp với việc chuyển đổi trong quản lí nông nghiệp giai đoạn này, tuy nhiên do nhiều lí do hoạt động của hợp tác xã gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại hình dịch vụ khác.

Cũng trong thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã đã lãnh đạo nhân dân thực hiện Chỉ thị 13/CT-TU ngày 3 tháng 9 năm 1998 của Tỉnh ủy về việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ lên ô thửa lớn. Trước đây, trung bình mỗi hộ có từ 5 đến 7 thửa ruộng, phân tán ở nhiều xứ đồng. Khi sản xuất phát triển đã nảy sinh những bất cập, nhất là việc đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng, chuyển dịch cơ cấu và đưa sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Dưới sự chỉ đạo của cấp trên Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong xã đã phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân, tăng cường công tác tuyên truyền để nhân dân thấy rõ lợi ích của việc đổi điền dồn thửa. Khi tiến hành phải đảm bảo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và dân chủ”, lấy thôn làm đơn vị chuyển đổi, ổn định hạng đất để tính thuế. Nhờ chuẩn bị chu đáo, được sự đồng thuận của đa số nhân dân, việc dồn điền đổi thửa ở xã Dân Lực đã đạt kết quả tốt. Thành công này góp phần quan trọng để địa phương tiếp tục quy hoạch lại đồng ruộng, đất đai được tích tụ theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

Giai đoạn này, Đảng bộ, chính quyền xã tập trung chỉ đạo về chương trình giống lúa lai, kiên cố hóa kênh mương nội đồng.

Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, biện pháp linh hoạt của chính quyền, sự cần cù, sáng tạo của nhân dân, sản xuất ở xã Dân Lực không ngừng phát triển. Năng suất lúa bình quân những năm 1996 đến 1998 thường đạt trên 90 tạ/ha/năm, thì đến năm 1999 đạt 100 tạ/ha/năm, vụ chiêm xuân năm 2000 đạt trên 60 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực, bình quân lương thực đầu người không ngừng tăng.

Chăn nuôi giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến.

Phong trào trồng cây, cải tạo vườn tạp tiếp tục được chú ý. Các hộ đã mạnh dạn đưa các giống cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao như, táo lai, hồng xiêm, ổi…thay cho những giống cũ.

Ngành nghề, dịch vụ, thương nghiệp có sự phát triển đáng kể. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đang được thể hiện sinh động, những máy móc đang dần thay thế lao động thủ công trong việc làm đất, bơm nước, vận tải, máy làm đất, xay xát, xẻ gỗ... Ngoài lao động từ dịch vụ, ngành nghề, mỗi năm có khoảng 17% lao động của xã đi làm ăn xa.

Văn hóa xã hội giai đoạn này có chuyển biến mạnh mẽ. Sau hơn mười năm đổi mới, đời sống kinh tế xã hội có bước phát triển, nhu cầu về văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên. Các phương tiện nghe nhìn như: ti vi, đài …. ngày càng phổ biến.

Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là lớp trẻ. Lối sống thực dụng len lỏi vào làng quê. Các hủ tục lạc hậu như ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín, dị đoan có xu hướng hồi phục.

Từ năm 1995, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, sau đó là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Trên cơ sở hai cuộc vận động này, Chính phủ và Thường trực Mặt trận Tổ quốc chính thức phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đảng bộ, chính quyền đã chỉ đạo các tổ chức đoàn thể triển khai học tập đến toàn thể nhân dân và có kế hoạch cụ thể đưa các cuộc vận động trên thành một phong trào thi đua rộng khắp trong toàn dân.

Các phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “xây dựng gia đình văn hóa mới” tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào đã khơi dậy nét đẹp văn hóa ngàn đời của làng quê Việt Nam như, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, nết thảo hiền, đức hiếu nghĩa, thực sự coi gia đình là tế bào của xã hội, qua đó giáo dục các thành viên. Năm 1996, toàn xã có 55% gia đình được cấp giấy công nhận gia đình văn hóa, đến năm 2000, số gia đình văn hóa của xã đạt trên 67%.

Năm 1996, trường Mầm non được chuyển đổi từ mẫu giáo Dân Lực sang trường Mầm Non bán công Dân lực với 196 em và được chia làm 8 lớp. Giai đoạn 1996 - 2000 cả 3 trường Trường THCS xã Dân Lực, trường Tiểu Học, Trường Mầm Non bán công Dân Lực đều có nhiều cố gắng, chất lượng dạy và học của các trường không ngừng được nâng lên, nhiều năm liên tục cả 3 trường đạt trường tiên tiến cấp huyện.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh môi trường của trạm y tế được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Trạm y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ thầy thuốc, hàng năm khám và điều trị ban đầu cho hàng ngàn lượt người. Giai đoạn này trạm tiếp tục tham mưu cho lãnh đạo địa phương đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tiêu và giếng nước hợp vệ sinh, một mặt vừa nâng cao đời sống của nhân dân, mặt khác để ngăn ngừa các dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Kết quả chưa thực sự cao nhưng cũng đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, tỉ lệ sinh con thứ 3 ở địa phương giảm mạnh.

Công tác xóa đói, giảm nghèo và chính sách xã hội được thực hiện nghiêm túc, xã đã liên hệ với ngân hàng chính sách cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất. Nhờ vậy số hộ thuộc diện đói, nghèo liên tục giảm. Địa phương thực hiện nghiêm các chế độ chính sách xã hội, vận động xây dựng quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, luôn hoàn thành vượt mức các cuộc vận động nhân đạo.

Công tác quốc phòng - an ninh trên địa bàn luôn được giữ vững, tuy vậy Đảng bộ, chính quyền xã Dân Lực cũng nhận thấy cần phải cố gắng hơn nữa để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới như, tăng cường tập duyệt phương án chống gây rối, bạo loạn, lật đổ; phát huy dân chủ phải đi kèm với tăng cường kĩ cương phép nước, tránh bị lợi dụng gây mất đoàn kết ở địa phương.

IV.  GIAI ĐOẠN  2000 - 2005

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực thực hiện nhiệm vụ giai đoạn này bằng một sự kiện quan trọng, năm 2000 Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XV được tổ chức với tinh thần: Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới, Đại hội đã đi sâu đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ giai đoạn vừa qua, khẳng định những thành tích đạt được trong 15 năm đổi mới, đặc biệt là việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội nhiệm kì vừa qua là to lớn và căn bản, tạo tiền đề để địa phương đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở bước cao hơn.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân luôn đoàn kết, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn vươn lên giành nhiều thắng lợi to lớn trên các mặt kinh trế, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Văn hóa xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng được cải tạo, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.

Đảng bộ, chính quyền coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp một cách toàn diện cả về trồng trọt về chăn nuôi. Thực hiện đồng bộ các biện pháp thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện pháp kĩ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất hai vụ lúa, mở rộng diện tích vụ đông trên đất 2 lúa, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Diện tích lúa lai của xã đạt 50 - 60% diện tích gieo cấy. Tiếp tục hoàn chỉnh công tác thủy lợi để phục vụ sản xuất...

Dịch vụ, thương nghiệp, việc làm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ngày càng thể hiện rõ nét ở Dân Lực. Trong sản xuất nông nghiệp, ngành nghề, lao động thủ công giảm nhanh chóng, thay vào đó là các loại máy móc ngày càng nhiều. Một số công đoạn trong sản xuất như: làm đất, vận chuyển, tuốt lúa...hầu hết bằng cơ giới. Các hộ làm nghề như: tiểu thủ công nghiệp, làm gạch, đan lát, máy cưa, gò hàn, sửa chữa...thu hút số lao động lớn của địa phương. Số lao động thoát li nông nghiệp mỗi năm một tăng, đến năm 2004 có khoảng 1.500 lao động.

Cơ sở vật chất tiếp tục được cải tạo, xây mới, giai đoạn này địa phương đã cải tạo, nâng cấp, xây mới được một số công trình như: nâng cấp trạm bơm tiêu úng, xây kênh bê tông và một số kênh mương khác.

Đây là giai đoạn giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Năm học 2002 -2003 Trường Tiểu học xã nhà đã được Bộ giáo dục và đào tạo công nhận là trường chuẩn quốc gia mức độ I. Cũng từ năm học 2001 - 2002, Bộ Giáp dục - Đào tạo tiến hành thay sách giáo khoa ở tiểu học, đến năm học 2003 - 2004 thực hiện thay sách giáo khoa ở cấp trung học cơ sở. Cùng với việc tiến hành thay sách giáo khoa, Bộ Giáo dục - Đào tạo chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt, chưa bao giờ thiết bị dạy học được trang bị đầy đủ như giai đoạn này. Tỉ lệ học sinh giỏi, học sinh tiên tiến ở các trường tăng lên. Nhiều năm, các trường đạt trường tiên tiến cấp huyện, số cháu đậu vào trường THPT đạt 60% đến 70%, 20 đến 30 cháu đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng. Trung tâm giáo dục cộng đồng, Hội Khuyến học hoạt động hiệu quả, đóng góp xứng đáng vào phong trào giáo dục của xã.

Bên cạnh đó Đảng ủy, chính quyền cũng đã tập trung chỉ đạo và có biệp pháp hữu hiệu nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ ở trạm y tế. Cơ sở vật chất cũng được tăng cường nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác khám chữa bệnh. Công tác vệ sinh, môi trường được quan tâm chỉ đạo, đến năm 2004, toàn xã có 80% số hộ dùng nước sạch, 29% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh. Hàng năm, trạm y tế khám, điều trị được từ 2.000 đến 2.500 lượt người. Các hoạt động y tế khác cũng thu được kết quả khá, đến năm 2004 tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 0,7%.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới và làng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Năm 2000, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có công văn số 33/VHTT hướng dẫn khai trương xây dựng làng văn hóa. Đảng ủy, chính quyền nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội ở địa phương, góp phần quan trọng để thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới. Từ năm 2000 đến năm 2002, xã Dân lực đã tổ chức khai trương xây dựng làng văn hóa với 8/8 thôn trong toàn xã. 8/8 thôn đề xây dựng được hương ước, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, khôi phục nét đẹp văn hóa ngàn đời của cha ông còn tiềm ẩn trong nhân dân. Hàng năm, có khoảng 75% gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Công tác thông tin, tuyên truyền và thể dục, thể thao được duy trì và tiếp tục phát triển.

Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” và “xóa đói giảm nghèo” được Đảng bộ và nhân dân quan tâm đúng mức. Các đối tượng chính sách và gia đình chính sách được địa phương quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ vươn lên trong cuộc sống.

Công tác quốc phòng, an ninh: luôn được giữ vững. Hàng năm, địa phương đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, huấn luyện quân sự và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Lực lượng dân quân được biên chế đủ 2% dân số, thường xuyên tham gia diễn tập phòng thủ, phòng chống bão lụt, chống gây rối, bạo loạn, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương. Lực lượng công an tăng cường cả số lượng và chất lượng, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, giữ vững trật tự trị an và thực thi pháp luật ở địa phương.

V.  GIAI ĐOẠN  2005 - 2010

Trong niềm vui chung của những thành tích đạt được  năm 2005 Đảng bộ xã nhà long trọng tổ chức Đại hội lần thứ XVI tại hội trường xã.  Đại hội Đảng bộ lần này diễn ra trong điều kiện tình hình kinh tế đất nước đang thu được những thắng lợi quan trọng. Sau gần 20 năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kì trước là tiền đề quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực thực hiện nhiệm vụ giai đoạn mới.

Bên cạnh những thuận lợi cho việc phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, chúng ta còn gặp không ít khó khăn: thiên tai, dịch bệnh nhiều, chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động thiếu việc làm, giá vật tư sản xuất cao, giá nông sản thấp, khó tiêu thụ, một bộ phận nông dân đời sống còn thấp... Song với tinh thần nỗ lực, phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã, xã Dân Lực đã đạt được những thành tích quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn này là tiến hành dồn điền đổi thửa lần thứ hai. Thực hiện Nghị quyết của cấp trên thì Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo các thôn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, làm cho nhân dân thấy rõ việc tích tụ ruộng đất, bước đầu là dồn điền đổi thửa là bước đi tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhờ có kế hoạch sát đúng của chính quyền và làm tốt công tác tuyên truyền, phần đông nhân dân đều tự giác chấp hành. Cũng qua lần điều chỉnh ruộng đất này, địa phương quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015, dành đất cho khu vực dân cư, các công trình phúc lợi như: trung tâm văn hóa, thể thao, giao thông... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Nhìn chung sản xuất giai đoạn này luôn đan cài những thuận lợi và khó khăn. Cán bộ và nhân dân trong x㠓thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong điều kiện phải đương đầu với những khó khăn, thử thách. Thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, giá cả thị trường biến động mạnh, tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Dịch cúm gia cầm liên tiếp xảy ra, dịch tai xanh ở lợn bùng phát. Ngay từ đầu nhiệm kì địa phương thiếu ổn định chính trị, một số cán bộ có biểu hiện tiêu cực, lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút”([3]).

Đứng trước tình hình trên, với sự đoàn kết, quyết tâm cao, Đảng ủy, chính quyền xã nhà đã tập trung lãnh đạo, mau chóng ổn định tình hình, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức đoàn thể, cán bộ và nhân dân trong xã vượt qua mọi khó khăn, từng bước hoàn thành mục tiêu đề ra. Kinh tế tăng trưởng khá, cơ sở hạ tầng được cải tạo, lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền được củng cố, khối đoàn kết được tăng cường, hệ thống chính trị được củng cố và chuyển biến tích cực, bộ mặt nông thôn không ngừng được đổi mới.

Dưới sự lãnh đạo  nhân dân Dân Lực đoàn kết một lòng vững bước vượt qua mọi khó khăn, đưa quê hương ngày càng phát triển, trong đó nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, nâng dần tỉ trong công nghiệp, dịch vụ, việc làm. Đường giao thông liên thôn, liên xã đã được bê tông hóa tạo điều kiện đi lại thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện các hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ sửa chữa nhỏ, may mặc…ven trục đường.

Về văn hóa - xã hội: Đây là giai đoạn chúng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết trung ương V khóa VIII về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kinh tế phát triển, người dân ngày càng có điều kiện hưởng thụ các thành tựu khoa học, kĩ thuật phục vụ nhu cầu giải trí và hiểu biết của con người. Tuy nhiên, đây cũng là lúc các mặt trái của cơ chế thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Những văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống thực dụng, những biến thái tiêu cực trong đời sống xã hội như: nạn ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín dị đoan... có điều kiện phát triển. Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa càng trở nên cấp thiết và được Đảng bộ, chính quyền xã nhà quan tâm chỉ đạo.

Trong thời gian này, Đảng bộ, chính quyền xã dân Lực tiếp tục quan tâm chỉ đạo phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Các đơn vị đều đầu tư xây dựng nhà văn hóa, xã có sân thể thao, hàng năm tổ chức các cuộc thi của các đoàn thể, tham gia văn nghệ ở huyện... tạo nên sự hoạt động phong phú ở địa phương. Đặc biệt tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng làng văn hóa đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa mới, vừa mang bản sắc địa phương, vừa tiếp thu những yếu tố văn hóa thời đại.

Giai đoạn này chất lượng giáo dục của các trường không ngừng được nâng lên Cơ sở vật chất được địa phương quan tâm xây dựng. Nhờ đó, tỉ lệ lên lớp và được công nhận tốt nghiệp đạt 99%-100%, mỗi năm có 50 – 70 cháu đậu đại học, cao đẳng.

Công tác giáo dục tiếp tục ổn định và phát triển. Cơ sở vật chất nhà trường được cải tạo. Địa phương đã đầu tư xây dựng văn phòng và các phòng học chức năng. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, tỉ lệ đạt chuẩn của trường Tiểu học và Trung học cơ sở đạt 100%. Do làm tốt công tác dân số, số lượng học sinh giảm dần, nhất là ở khối tiểu học.

Công tác y tế luôn được chú trọng quan tâm.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng dân quân, quân dự bị và lực lượng công an. Coi lực lượng này là công cụ chuyên chính ở cơ sở. Bởi vậy, luôn chăm lo xây dựng lực lượng có lập trường tư tưởng và bản lĩnh cách mạng vững vàng, sẵn sàng chiến đấu khi xảy ra chiến tranh, đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của kẻ địch. Đồng thời quản lí tốt quân dự bị, thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ.

Lực lượng công an luôn được củng cố và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi năm công an xã đã giải quyết hàng chục vụ việc theo đúng quy định và gửi hồ sơ lên cấp trên giải quyết những vụ việc vượt quá thẩm quyền, ngăn ngừa kịp thời không để vụ việc lớn phát sinh trên địa bàn. Thực hiện Nghị quyết 32/CP, Nghị định 146/BCA và Hướng dẫn 144 của Sở Công an Thanh Hóa về kiềm chế tai nạn giao thông, UBND xã đã thành lập tổ kiểm tra việc thực hiện luật giao thông trên địa bàn xã, góp phần làm giảm tai nạn giao thông trên địa bàn và làm cho nhân dân ý thức hơn trong việc chấp hành Luật Giao thông. Trên cơ sở Chỉ thị số 10/CT-CTUB của Chủ tịch UBND tỉnh và Đề án 375 của UBND tỉnh Thanh Hóa, địa phương đã thành lập được các tổ an ninh xã hội và tổ an ninh trật tự ở các thôn, góp phần giữ gìn trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm, chỉ đạo. Hội đồng nhân dân đã có nhiều đổi mới trong việc tổ chức các kì họp và giám sát thực hiện trong các hoạt động quản lí kinh tế, đất đai, trả lời, giải quyết những kiến nghị của cử tri có hiệu quả.

Qua việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và thực hiện cải cách hành chính ở cơ sở, hoạt động của HĐND và UBND ngày càng hiệu quả hơn. Trong công tác quản lí, thực hiện nghị quyết của Đảng ủy, HĐND xã và của cấp trên, UBND xã từng bước xây dựng tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ nhằm hướng tới mục tiêu chuyên nghiệp, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở địa phương hoạt động ngày càng hiệu quả. Đây là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân trong toàn xã. Đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện các phong trào ở địa phương như: toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ nhà dột nát cho người nghèo, phát triển kinh tế xã hội, tích cực học tập, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, hộ gia đình kinh doanh và sản xuất giỏi... phát huy tinh thần làm chủ của các hội viên thông qua đại diện là các đại biểu nhân dân, các tổ chức quần chúng, nhờ đó mà phát huy được sức mạnh của cộng đồng trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

VI.  GIAI ĐOẠN  2010 - 2016

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân lực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế trong điều kiện có nhiều thuận lợi, nhưng cũng nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả đạt được trong giai đoạn trước đã tạo tiền đề cho địa phương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, những điều kiện khách quan như bão lụt, giá cả biến động mạnh do lạm phát, dịch rầy nâu trên lúa, dịch bệnh phát sinh trên đàn lợn, cơ sở hạ tầng của địa phương còn hạn chế... là những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ của địa phương.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã đã ra sức khắc phục khó khăn đưa kinh tế tăng trưởng năm sau đều cao hơn năm trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, vượt qua các mục tiêu nghị quyết đề ra, phát huy nội lực, tiềm năng từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Từ điểm xuất phát mới chỉ đạt 3/19 tiêu chí năm 2010 đến hết năm 2015 xã đạt 14/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đời sống nhân dân ngày một nâng cao, thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước.

Trong gần 30 năm đổi mới cùng với xu thế phát triển chung của cả huyện, kinh tế xã nhà đã từng bước ổn định và đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Năm 2006 giá trị sản xuất mới đạt 50.056 tỷ đồng mà đến năm 2010 đã lên đến 85.726 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 14.25%/năm.

Trong chăn nuôi đến năm 2015 giá trị sản xuất hàng năm đã đạt 49,4 tỷ đồng/năm. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản đã mang về giá trị thu nhập lên đến 78,5% chiếm 29% tỷ trọng cơ cấu sản xuất. Năm 2016 sản xuất nông nghiệp tiếp tục thu được những thành tích khả quan. Năm 2016 Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 5.506,5 tấn, trong đó ngô  181,54 tấn. Đạt 122,3% so với kế hoạch đề ra. Bình quân lương thực đầu người đạt 633kg.

Về chăn nuôi, làm tốt công tác vệ sinh, phòng dịch, tổng đàn gia súc, gia cầm luôn có sự biến động về số lượng. Đàn gia cầm tăng đạt 18.000 con. Đàn lợn năm 2010 có 3986 con và đến năm 2016 giảm còn 785 con. Đàn trâu bò giảm do có máy móc thay thế trong nông nghiệp năm  2010 đàn trâu, bò có 670 con đến năm 2016 giảm còn 634 con.

Các ngành dịch vụ nông nghiệp từng bước phát triển đáp ứng được yêu cầu sản xuất và góp phần giải quyết việc làm ở nông thôn như cơ giới hóa đồng bộ đã được triển khai thực hiện. các ngành nghề phát triển mạnh như nghề xây dựng, cơ khí gò hàn, sản xuất vật liệu không nung, dịch vụ vận tải….

Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, các công trình phục vụ sản xuất, phúc lợi xã hội cũng thường xuyên được cải tạo và xây mới. Các công trình như trường học, trạm xá, hệ thống mương tưới, tiêu, đường giao thông nông thôn ngày càng được nâng cấp. Đến năm 2016, toàn xã đã có 20,8 km đường giao thông trục xã, liên thôn được bê tông hóa. Các hộ chính sách, hộ nghèo được chăm lo, giúp đỡ, đảm bảo đầy đủ các chế độ đãi ngộ. Hàng năm, bằng nhiều nguồn vốn từ các nguồn khác nhau.

    Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, sự vào cuộc tích cực của hệ thông chính trị, sự đồng lòng đoàn kết trong nhân dân xã nhà, đề án xây dựng nông thôn mới của xã đã thu được kết quả đáng mừng, hết năm 2015, đã hoàn thành được 14 trên 19 tiêu chí gồm: quy hoạch; giao thông; điện; bưu điện; nhà ở dân cư; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập nhân dân, giảm hộ nghèo và an sinh xã hội; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả trên địa bàn nông thôn; phát triển giáo dục - đào tạo; y tế; xây dựng đời sống văn hóa; xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội nông thôn.

Văn hóa, xã hội tiếp tục có bước phát triển mạnh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đang chuyển dần về chất. Hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, văn hóa xã hội ngày càng phát triển.  Năm 2014 quy ước, hương ước của các làng văn hóa đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình địa phương. Nếp sống văn hóa mới trong việc cưới việc tang và lễ hội được nhân dân trong xã chú trọng quan tâm. Đến năm 2016 đã có 8/8 thôn sử dụng nhạc hiếu trong đám tang.

Chất lượng học tập của các trường không ngừng được nâng cao. Năm học 2007 - 2008, hưởng ứng cuộc vận động Hai không của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong đó có nội dung nghiêm túc trong thi cử, đánh giá học sinh và chống bệnh thành tích trong giáo dục. Sang năm học 2008 - 2009, các nhà trường đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Nhiều năm liên tục các trường đều đạt tiên tiến cấp huyện. Năm học 2007 – 2008 Trường Trung học cơ sở xã nhà đã được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia lần thứ 1. Năm học 2008 – 2009 trường Tiểu học được công nhận là trường chuẩn quốc gia lần thứ 2. Đến năm học 2013 – 2014 trường THCS lại được công nhận là trường chuẩn Quốc gia lần thứ 2 và trường Tiểu học được công nhận chuẩn quốc gia lần thứ 3.

Trong các năm học khối trường đã luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhiên viên vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết và nhiệt tình. Hàng năm tỉ lệ học sinh giỏi khá luôn ở tốp đầu của huyện, học sinh yếu kém các năm học giảm mạnh. Chất lượng dạy và học luôn được đặt hàng đầu.

Chất lượng của trạm y tế ổn định, Đầu năm 2015, địa phương đã hoàn chỉnh việc xây dựng chuẩn Quốc gia về y tế  được tỉnh về kiểm tra và công nhận, có 45% số hộ có nhà tiêu, nhà tắm đạt vệ sinh, 82% số hộ dùng nước hợp vệ sinh, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng  13%, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dao động ở mức 0,6%.

Về quốc phòng - an ninh, dù đang trong điều kiện hòa bình nhưng tình hình tranh chấp lãnh thổ, nhất là trên Biển Đông diễn ra ngày càng phức tạp do Trung Quốc gây ra. Đảng ủy, chính quyền tăng cường củng cố lực lương dân quân, quân nhân dự bị thường xuyên luyện tập và sẵn sàng chiến đấu cao. Lực lượng công an thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương được quan tâm. Hoạt động của Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể ngày càng đi vào hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới. Liên tục trong nhiều năm Đảng bộ xã Dân Lực được Huyện ủy Triệu Sơn công nhận Đảng bộ Trong sạch, vững mạnh.

Nhìn lại chặng đường gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng bộ, chính quyền  và nhân dân Dân Lực đã thu được những kết quả rất đáng tự hào. Tuy nhiên, để đạt được kết quả ấy, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã gặp phải nhiều khó khăn, gian khổ. Là một xã sản xuất nông nghiệp thuần nông, mức sống của nhân dân còn thấp, bằng nội lực của mình, được sự giúp đỡ của cấp trên, sản xuất ở xã Dân Lực có bước phát triển đáng kể. Sản lượng lương thực ở địa phương không ngừng tăng lên, cơ cấu giống cây trồng vật nuôi ngày càng đa dạng, phong phú, giá trị kinh tế ngày càng cao. Ngành nghề, dịch vụ, thương mại phát triển phá thế độc canh cấy lúa, nâng cao dần nguồn thu của địa phương. Trong các ngành nghề sản xuất, sự xuất hiện của điện, cơ khí đang dần thay thế lao động thủ công theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, văn hóa - xã hội phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ cách mạng của địa phương. Bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống ấm no, hạnh phúc đang hiển hiện sinh động trên mảnh đất Dân Lực giàu truyền thống cách mạng. Chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn dài, nhưng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực chắc chắn sẽ vượt qua mọi khó khăn, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng và văn minh.

PHẦN KẾT

Vượt qua mọi khó khăn thử thách bước vào thời kì đổi mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã nhà đã vận dụng linh hoạt đường lối đổi mới của Đảng, nhà nước vào thực tế địa phương, từng bước đưa sản xuất phát triển. Từ một vùng quê người dân thiếu đói quanh năm, Dân Lực vươn lên thành một địa phương thâm canh lúa, tổng sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, góp phần cùng với cả huyện trở thành vùng kinh tế trọng điểm của Thanh Hóa.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Dân Lực càng được phát huy cao độ. Kinh tế của địa phương có bước phát triển mới, từ một nền kinh tế thuần nông đến nay tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, việc làm chiếm gần 50% tổng thu nhập của xã. Các công trình phúc lợi như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ngày càng thêm khang trang, hiện đại. Những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều, thay thế dần những mái tranh ẩm thấp trước kia. Cuộc sống mới đang đâm chồi nẩy lộc trên vùng quê Dân Lực giàu truyền thống yêu nước.

Trong quá trình dựng xây và phát triển của mình, phong trào có lúc thăng, lúc trầm, nhưng qua mỗi lần vấp ngã, Đảng bộ, chính quyền xã nhà lại rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm không ngừng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng ở địa phương, Đảng bộ, chính quyền xã nhà đã rút ra những bài học sau:

Một là: Quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

Hai là: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao. Coi trọng công tác quy hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để có đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu hiện tại và tương lai.

Ba là: Phát huy tinh thần dân chủ thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh với những sai trái, giữ nghiêm kỉ luật, tạo niềm tin trong nhân dân; xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, chính quyền, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bốn là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo lợi ích về tinh thần, vật chất và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nhằm tạo nên phong trào cách mạng rộng khắp trong nhân dân, động viên sức người, sức của vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

Phát huy truyền thống của quê hương, nhân dân xã Dân Lực cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng, kiên trung trong chiến đấu. Với những thành tích đạt được hơn 60 năm dựng xây, phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Dân Lực quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vươn lên giành thành tích to lớn hơn nữa, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.